album của BCT

album của BCT
một vài hình ảnh chia sẻ với bạn đọc

Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 24 tháng 10, 2009

"NỖI BUỒN, BIẾT GỬI VÀO ĐÂU"


"NỖI BUỒN, BIẾT GỬI VÀO ĐÂU, Bùi Công Thuấn đọc thơ Lê Thanh Xuân
phê bình văn chương


Lê Thanh Xuân là nhà thơ của nỗi buồn. Có một nỗi buồn mênh mang thê thiết, nỗi buồn thẳm sâu trong thơ anh, nỗi buồn ẩn mật không thốt thành lời ( Trở Về, Thời Khắc, Đi Bộ Trên cao Nguyên, Hà Đông, Con Đò Qua Sông Đà, Gặp Bạn, Bóng Cỏ, Thầm Lặng, Cát).

Nỗi buồn / Biết gửi vào đâu?
Nhờ trăng cất hộ / Cỏ lau giữ giùm
Sợ trăng nhoà nhạt đầu nguồn
Sợ lau úa lá / sợ buồn cõi hoang “
(Không đề II)

Không phải là vu vơ buồn của thơ lãng mạn, cũng không là nỗi buồn về những mất mát hy sinh, mà là nỗi buồn không gọi rõ tên. Thấp thoáng gian nan đời ghềnh thác, nổi nênh . Một trời cô độc, bơ vơ. Triền miên đêm thao thức tự tình và nước mắt. Vô vọng mù khơi muà đông hoá đá ( Thơ Tặng Mình ),”Nghìn xưa vẫn ở một nơi / Ta thì ta với cuộc đời lênh đênh/ công danh mắc cạn đầu ghềnh “( Nỗi Buồn Đong đưa), Sống là sống trong chiêm bao :”Giật mình lật nửa mảnh khuya / Mới hay mình mới đi về chiêm bao”(Nửa Đêm ). LTX không còn biết mình là người hay là ma (Bóng ). Như con cò trong đêm bất an vì bẫy rập (Bẫy, Tiếng Cò Đêm) : “ Con tôm con tép/ Nào dễ đâu cò ? / bẫy đời giăng mắc / Mảnh trăng đục mờ/ Tiếng cò se sắt / Trong tôi…” Bài thơ Không Đề là cảm nghiệm u uất của nhà thơ vào lúc tuổi đã cuối chiều : Cuối chiều sót tiếng chim ri / Nhặt lên mà nhớ thuở đi xa nhà “.

LTX có những tứ thơ diễn tả nỗi buồn thật thê thiết.

Tôi một đời của số kiếp lang thang
Con nai dẫn lối
Hoà Bình năm ba mươi mốt tuổi
Đồng Nai tuổi ngót năm mươi
Lau trong đời vẫn trắng
Gió trong đời vẫn thổi
Núi trong đời vẫn mọc
Giấc ngủ đêm bật khóc sông Đà
(Nhớ Về Nơi Mình Ra Đi )

Độc hành một khúc ngẩn ngơ
Dòng sông bỗng thấy mình vơ vẩn buồn
(Khúc Sông Chiều)

Thế cũng đủ rồi cho một kiếp mùa đông
Lạnh đến trống vắng, cô đơn đến kiệt cùng
(Phân Giải )
Đêm mơ một giọt trăng soi
Ngày mơ chút nắng bầu trời đánh rơi
(Tiếng Chim Gù )

Tuổi già là thực tại ám ảnh buồn. Già đồng nghiã với muộn màng, đồng nghiã với muà đông, đồng nghiã với nuối tiếc không sao trở lại được thời vạm vỡ. “Một gã đàn ông tóc bạc thẫn thờ / Bước dưới vì sao như mơ như thực / Khẽ gọi tên mình trong tiếng bơ vơ “(Trở Về)

Ta đến. Đò đã sang sông
Chiều kia đang khuất phía đồng xa xa
Ta đến. Núi đã về già
Đá gồng trổ chút nụ hoa nghĩa gì
Ta đến. Phố đã vào khuya
Sợ tay gõ cửa. Người nghe giật mình
Ta đến. Ta thành vô tình
Muộn màng đã xoá tên mình –thế gian
Đành làm con nhện đa mang
Chăng tơ mà nhớ nắng vàng lối xưa
(Muộn)
Và dù viết về đề tài nào, hồn thơ anh vẫn là những suy tư về hiện sinh. Hồn thơ ấy đằm thắm những tình cảm thiết tha và nhân hậu, không ta thán. Anh “cười trong tiếng nấc xa xôi “. Anh để hồn tan vào mây vào gió .“Nhưng ngọn gió đã bứt khỏi cuộc đời / Niềm xanh tươi hy vọng / Trái đất thành cô đơn/ Anh thành kẻ lang thang hành khất”(Hà Đông ). Gió cũng không bình yên. ”Đời như gió khôn lường / Chọn sống mà gửi chết”(Phố Núi ). “Ta lạc ta mòn đêm” .Nhưng anh không lạc mất vào hư vô, không vong thân trong ảo ảnh, không đắm chìm trong tuyệt vọng. Anh vẫn còn niềm tìn, vẫn còn cõi đi về cuả hồn mình, vẫn còn tổ chim cọng rơm vàng làm bến đợi . Và đôi khi cũng sáng lên một thái độ quyết liệt, như cát trắng tinh khôi

Hãy yêu đi, màu trắng- Một màu thôi!
Hãy sống đi, cát không ưa lẫn lộn
Sự tinh khiết không thể chôn vùi
Sự phơi bày không hề che giấu
Mưa không ngập ngừng, nắng không do dự
Biển ngoài kia xanh đến thẳm sâu
Cát nơi đây vẫn trắng một màu
Sự thử thách như trò chơi đuổi bắt
Thôi, cứ để chất mặn sa huỳnh trong mắt
Để cát vàng đọng lại thịt da
Ta thử sống cuộc đời của cát
Giữa nhân tình thế thái bao la”
(Cát )
Có thể nhận ra nỗi buồn trong thơ LTX là nỗi buồn hiện sinh, song thơ anh rất ít nói về hiện thực. LTX không nói gì về thực tại anh sống, không nói gì về hai cuộc kháng chiến vĩ đại, không nói gì về đất nước đang chuyển mình trong kinh tế thị trường, về thời đại toàn cầu hoá về những vấn đề nóng bỏng của hôm nay, như sự tàn phá môi trường, bão lụt, tệ nạn xã hội, sự đổ vỡ gia đình và hạnh phúc, những xâm lăng văn hoá làm bạc nhược bản sắc văn hoá dân tộc… Hồn thơ anh ở nơi đầu nguồn cuối bãi, treo trên mảnh trăng mờ sương, phiêu lưu cùng ngọn gió, lạc loài trên cánh đồng ký ức. Nhà thơ đi nhiều về miền thảo nguyên núi non, khuất nẻo thị thành, nhưng lại không siêu thoát. Từ chối tìm kiếm giàu sang nhưng lại phủ định Phật (Ngẫu Hứng ). Chỉ có niềm thương thân : “Chỉ ta với ta – Đường cũ / Chiều thu tóc trắng, sương nhoà (Thời Khắc)

Đôi khi anh có ghi đôi nét nào đấy của hiện thực, nhưng chỉ là sự chia sẻ vô tình. Lụt ở Đồng Tháp (Một Thoáng Tháp Mười), mất muà (Mưa Chiều.), làng nghèo (Làng Tôi), Ý Tưởng Về Biên Hoà . Nỗi cô đơn của người phụ nữ trong buổi chiều đang tắt dần vào mất còn im lặng (Hoàng Hôn ). Chuyện người đàn ông đàn bà không tên : ”Họ ngồi nhớ xa / họ ngồi buồn gần / Họ lặng im trước những tấm bằng liệt sĩ / Họ lặng im trước những mất còn…”(Trong Ngôi Nhà ). Anh giảng giải về đá vọng phu, hoặc ra sông nhớ một người bạn đã cách trở âm dương. Gần như anh thờ ơ trước thực tại. Điều này là một ẩn mật trong thơ anh. Anh tự coi mình là đá vô tri. “Ta là đá. Đá là ta ?.../ Vô tri đá khép lâu dài “(Hồn Đá ). Đôi khi hồn thơ anh cũng rạng rỡ khí sắc . Trên Cánh Đồng Mường Thanh là sự trở về muộn màng :

Vẫn còn đây lịch sử không quên
Đồi A1, Himlam, bản Kéo
Lật gốc luá còn in bao dấu
Những đường hầm ngoắt ngoéo dọc ngang
Sắt gỉ của xe tăng, chỏng chơ vỏ đạn
Bơ hộp, tư trang của kẻ bại hàng
Vết quả quyết quân đoàn bão lốc
Còn in dốc cao, lòng núi, cánh rừng
Những dấu vết khiến quân thù tan mộng
Tám mươi năm trời nuôi chí xâm lăng
Tôi đến đây một kẻ muộn màng
(Trên cánh Đồng Mường Thanh )

Trong tập Hồn Đá có khá nhiều bài thơ tình. Những Điều Đi Qua, Những Mảnh Vỡ Muà Thu, Một Năm 12 Tháng, Những Ngọn Cỏ Bên Bờ Sông Đà, Không Đề. Ngã Ba Mãn Đức, Nhớ Hà Nội Thu, Phân Giải, Bến Đò, Nhớ Xa, Bài Thơ Không Tên. Đó là những lời tâm sự với người yêu, những lời tự tình với em, một nhân vật của kỷ niệm, một nhân vật không rõ dáng hình, một gặp gỡ tình cờ nào đó, một cuộc tình chưa thành tên. Thực ra, LTX chỉ mượn hình thức thơ tình để nói những khát vọng tình yêu, khát vọng sống và những nuối tiếc khôn nguôi.

Bền ấy có một lần anh và em :
Nửa mảnh trăng đầu tháng, nửa mảnh trăng cuối tháng
Con đò sang sông trăng vẫn chưa tròn
Đầu bên này anh chờ. Đầu bên kia em đợi
Lau đêm sạc xào cứa cắt sườn non…
Đêm ấy lặng lẽ sông đi về biển
Sông cắt đôi ta hai phiá bãi bờ
Con đò mệt mỏi ngủ mơ bên sóng
Chúng mình ngược nhau cho tới bây giờ
(Bến Đò)

Tất cả rơi.Tất cả tan…
…Những mảnh vỡ của tình yêu tôi nào biết có còn
Chỉ biết tôi sống mòn sống mỏi
Tìm trước mặt trời, tìm trong đêm tối..
…Như có tiếng thuỷ tinh vỡ đau xác vụn
Của một mối tình đâu đó lạnh tanh
(Những Mảnh Vỡ Mùa Thu)

Anh vẫn biết những điều đi qua rồi sẽ mất
Lá vàng rơi chẳng thể trở lại cành
Sợi tóc bạc làm sao xanh nữa
Dòng nước xuôi đâu ngược lại được ngọn ngành
(Những Điều Đi Qua)

Trĩu nặng trong thơ anh là tình quê. “Tôi mang miền quê lang thang khắp xứ / Để một ngày trở lại làng xưa”. Quê hương, đồng quê, tuổi thơ vẫn đi về trong thơ anh, làm nền cho mọi suy nghĩ về thực tại. Quê hương nghèo nhưng đẹp và ấm áp nghiã tình (Quê Hương, Một Năm 12 Tháng, Lửa Khoí, Kỷ Niệm Muà Thu, Tiếng Ếch, Ban Mai Ngoại Thành, Những Đàn Chim Di Cư, Tiếng Chim Gù ) Anh khai thác triệt để chất liệu đồng quê để thể hiện tình quê. Anh hoá thân thành cọng rơm vàng, thành ao nước phèn, con kênh đọng váng. Anh sống trong tiếng gió, tiếng ếch um um, tiếng cuốc nhói đêm, tiếng cò se sắt. Anh đắm mình trong hương cau thơm khắp miền quê, hương hoa ngâu thơm khắp vườn nhà, hoa xoan tím ướt sũng trong mưa, hoa lau trắng tinh bay qua năm tháng và hoa bắp lay phơ phất trên đồng. Chỉ có tình quê mới làm ấm áp hồn anh, chỉ có đất quê, sông quê, nhà quê mới là nơi anh trở về và tìm thấy sự bình an. Ngoài quê hương, anh chỉ là kẻ lang thang phiêu bạt không bám rễ vào được bất cứ nơi chồn nào. Anh lạc mất mình trong thành phố:”Ấy cũng là lúc mặt trời đưa tôi vào khuất lấp/ Trong âm thanh ồn ào, trong nẻo phố xa xôi “
( Đêm Thành Phố ). Chỉ có quê hương chân thật, nhân hậu mới làm anh trẻ lại, mới gieo vào anh sức sống vững bền (Quê Hương ). Cả nơi nghiã điạ làng anh cũng nhìn thấy con người làng quê sống chết có nghiã có tình

Cánh đồng đổ bóng nông dân
Lúa đây, cơm của mỗi lần mình ăn
Rau đây, mình ngọt miếng canh
Hoa đây, mình đẹp thị thành sắc hương…
Rạ rơm ở lại vấn vương
Tiếng chim ở lại bóng vườn xanh tươi…
Mơ gặp ruộng, ước gặp sông
Lưng trần, chân đầt đứng trông phố phường”
(Ban Mai Ngoại Thành )

Vầng trăng của làng mọc lên từ đất
Mưa của làng, mưa rơi ngang mặt
Nắng của làng, nắng từ phiá đôi chân
Tháng ba rỗng tuếch chum sành
Mẹ tôi đi chợ loanh quanh lại về
Vậy rồi đình vẫn hội hè…
Vẫn xoan tim tím, bờ tre tiếng cò
Tôi đi khắp xa gần xứ sở
Nơi đâu cũng làng đầy ắp giấc mơ
Nhưng chỉ có một làng trong tôi tháng ngày mong nhớ
Như con thuyền xa vẫn nhớ bến nhớ bờ
(Làng Tôi )
“Ngọn lửa quê ấm mãi trong lòng”.

Tôi soi xuống sông quê
Tìm nụ cười thuở nhỏ
(Một Khúc Sông Quê)

Xin kiếp sau cho ta làm ngọn gió
Dù đi đâu vẫn về bến quê nhà .

Làng quê luôn gắn người thân. Anh có những bài thơ rất cảm động với bà (Cây Cau), với mẹ (Hoa Ngâu, Tưởng Nhớ), với cha (Cha Tôi), với vợ, con (Em, Bài Thơ Viết Cho Con ), với bạn (Gửi Người Bạn Gái Một Thời, Tiếng Gió ), với quê hương nghèo (Gửi Quê Hươg, Ngoài Kia Có Một Con Đường ). Những bài viết về quê hương bằng lục bát cuả anh có khí chất tài hoa (Cây cau, Nghiã Điạ Làng).

Anh cũng gửi tình cảm sâu nặng về thiên nhiên, con sông, ngọn núi, con dốc, phố xá nơi anh đã đi qua. LTX không miêu tả mà suy tư về nơi ấy, từ đó tìm ra ngọn nguồn tình yêu thiên nhiên, đất nước trong lòng mình (Dốc Cun, Mai Châu, Chu Giang, Mường Thàng, Trên cánh Đồng Mường Thanh, Núi Tiên, Suối Lồ Ồ, Tháp Chàm, Trong Hang Cổ, Cù Lao Phố,Đồng Nai,Biên Hoà,Đêm Ngủ Lại Nguồn Đồng Nai, Bên Núi Đá Ba Chồng, Sông Đồng Nai, Một Thoáng Tháp Mười, Cà Mau, …)

Chậm rối, chiều đã xuống non
Thôi, đành ngủ lại với nguốn Đồng Nai…
…Thủ chung trong vắt đây rổi!
Mai về tôi vẫn gặp tôi với nguồn”

Đọc thơ LTX, người đọc gặp một gương mặt rất quen mà rất lạ. Khuôn mặt ấy bị hút vào nỗi buồn xa thẳm không thoát ra được, khuôn mặt ấy trĩu nặng tình quê hằn lên những khát vọng mênh mang . khuôn mặt luôn tìm kiếm một bến bãi bình yên nào đó để niềm tin còn có chỗ neo đậu, một nơi thật tinh khôi như cát trắng, một nơi thật nghiã tình như làng quê, một nơi thật ngọt ngào như tuổi thơ, một nơi mà sự sống này không nhai nuốt sự sống kia, một nơi mà cánh chim hải âu không còn bị giập vùi trong gió bão. Không có nơi ấy trong cõi đời này. LTX chờ đợi như một kẻ xa lạ.

Ô cửa sổ màu sơn đã nhạt
Chút nắng chiểu lặng lẽ ra đi
Một gương mặt buồn như bình hoa đã vãn
Một không gian chờ đợi điều gì?
Đã như thế nhiều ngày nhiều tháng
Dòng sông qua và gió đi qua…
(Ô Cửa Sổ)
Ô Cửa Sổ là một bài thơ lạ của LTX. Anh từ truyền thống nhập ngay được vào dòng chảy thơ đương đại, với kiểu tư duy nghệ thuật khác. Người đọc tưởng rằng, một nhà thơ tuổi đã xế chiều, như chiếc lá cuối muà thu, đã run rẫy lạnh buốt trước muà đông, đã hoá đá vô tri trước thực tại, đã đắm say trong thi pháp thơ truyền thống, thì LTX khó có thể làm mới ngòi bút của mình, vậy mà LTX đã có những bài thơ rất lạ so với chính anh. Ô Cưả Sổ là một ví dụ.

Xin đọc thêm Tiếng Ru Đêm

Tiếng ru của người mẹ chắt ra từ lồng ngực
Làm ấm lên một chút đêm hoang
Con không khóc lời ru vẫn thống thiết
Hình như người mẹ đang ru chính chình?
Trong vòng tay giấc ngủ ngọt như mật ong
Nhưng đứa trẻ lại mơ về dòng sưã
Còn người mẹ mơ về giấc ngủ
Xuyên qua vì sao tới tận mặt trời…
Nhưng mát đêm chỉ dành cho một người
Còn một người phải thức
Người mẹ thức, sờ tay lên lồng ngực
Mặt lo âu, nhìn xuống con mình
Và tiếng ru cứ thế đi tới bình minh…

Thơ “truyền thống” (1945-1975) là thơ Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghiã. Nhân vật chính là công, nông , binh ; nội dung phản ánh đời sống chiến đấu và xây dựng của nhân dân. Tâm tình nhà thơ là tâm tình công dân , kiều bút pháp là kiểu tụng ca lãng mạn. Tiếng Ru Đêm không nằm trong kiểu thi pháp ấy. Ta không xác định được nhân vật người mẹ ru con ban đêm là ai. Không gian đêm là không cụ thể. Tác giả không miêu tả, hay tụng ca người đàn bà này, mà suy tư về nhân vật. Nhân vật trong đời thực, ” Người mẹ thức, sờ tay lên lồng ngực/ Mặt lo âu, nhìn xuống con mình”, thoắt trở thành siêu thực.” người mẹ mơ về giấc ngủ/ Xuyên qua vì sao tới tận mặt trời…” Nhà thơ nhìn người mẹ mà tra hỏi về hiện sinh :” Con không khóc lời ru vẫn thống thiết/ Hình như người mẹ đang ru chính chính? Hệ thống hình ảnh thơ là hình ảnh siêu thực : tiếng ru chắt ra từ lồng ngực, làm ấm đêm hoang, tiếng ru thống thiết, Xuyên qua vì sao tới tận mặt trời, tiếng ru cứ thế đi tới bình minh…Ngôn ngữ không còn là phương tiện tái hiện thực tại, mà chuyển hoá thành thế giới cuả vô thức. Bài thơ không là chuyễn động tự sự mà là dòng chảy cuả ý thức, nhà thơ đang nghiệm sinh một “hiện tượng” trước mắt mình (kiểu Hiện Tượng Luận ). Đó là kiểu miêu tả “dòng ý thức” trong văn chương Hiện Sinh.

Những bài Trên Thảo Nguyên, Sắc Đẹp, Hoa Lau, Tiếng Cò Đêm, đều có những yếu tố mới lạ về thi pháp như Tiếng Ru Đêm. Đặc trưng thi pháp thơ LTX là thơ suy tư, (không phải kiểu thơ suy tưởng như thơ Chế Lan Viên). Lê Thanh Xuân đối diện với hiện thực, nhìn ngắm hiện thực mà suy tư. Hiện thực không phải là đồi tượng miêu tả của LTX, mà chỉ là cái cớ để nhà thơ truy tìm ý nghiã hiện sinh.(Tôi không có ý nói LTX là nhà thơ tư tưởng, nhà thơ Hiện Sinh ) Nhìn Cù Lao Phố, anh không ghi lại cảnh sắc thực tại Cù Lao Phố, mà tra hỏi “Nào đâu,ta chợt ngỡ ngàng” rồi vui mừng tìm ra điều kiếm tìm “May mà còn một chút đây : / Bóng chùa hoang tịch, rêu thay ý lời”. Anh nhìn hoa lau bằng con mắt “mong manh, hoang tưởng “ Hoa lau là nỗi đau đời :” nỗi đau hoang dại / trắng một đời mơ siêu thoát / Lau mọc âm thầm “. Hình ảnh cô gái chăn bò rất lạ :” Cô gái chăn bò tựa vào trời xanh khẽ hát / Đàn bò như đám mây vàng lang bạt / Trôi hiền lành trong nhịp điệu cô đơn…” Hiện thực đã thăng hoa vào miền suy tư của nhà thơ .Những suy tư như thế không hề có dính dáng gì với hiện thực.

Thơ LTX đem đến cho người đọc sự thú vị của những suy tư rất thật , những tình cảm rất đôn hậu (không khuôn sáo), và bất chợt những tứ thơ mới lạ vút lên , trong một kiểu tư duy nghệ thuật khá mới của riêng anh (Ô Cử Sổ, Hoa Ngâu, Tưởng Nhớ,Tiếng Ru Đêm, Dốc Cun, Trên Thảo Nguyên…).Lắng đọng trong thơ anh là tình quê thắm thiết cùng với những nỗi niềm không nói thành lời. LTX là một hồn thơ tài hoa . Khi suy tư và tình cảm cùng cháy lên thì thơ anh toả sáng mới lạ đến ngỡ ngàng.

Tháng 10/2009
____________________________________________
(*) Bài viết này trích thơ LTX trong các tập :Tiếng Ru Đêm- NxbVăn Học 2001 ; Đồng Hành – Nxb. HNV 2001; Hồn Đá- Nxb. HNV. 2007

Thứ Sáu, 16 tháng 10, 2009

'ĐI SUỐT ĐỜI CHƯA HẾT NIỀM SAY'

ĐI SUỐT ĐỜI CHƯA HẾT NIỀM SAY
(Đọc tập thơ Hai Phía Thời Gian của Đàm Chu Văn.Nxb HNV.2009)

Bùi Công Thuấn

NHÀ THƠ ĐÀM CHU VĂN, HỘI VIÊN HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM, HIỆN CÔNG TÁC TẠI BAN TUYÊN GIÁO TỈNH UỶ TỈNH ĐỒNG NAI. ANH CŨNG LÀ TỔNG BIÊN TẬP TẠP CHÍ VĂN NGHỆ ĐỒNG NAI.ANH ĐÃ IN NHIỀU TẬP THƠ. VƯÀ QUA ANH MỚI ẤN HÀNH TẬP THƠ HAI PHIÁ THỜI GIAN.BCT XIN CHIA SẺ VỚI ANH NHỮNG GÌ MÌNH CẢM NHẬN ĐƯỢC QUA TẬP THƠ NÀY


Chân dung nhà thơ Đàm Chu Văn

Đàm Chu Văn viết :” Đi suốt đời chưa hết niềm say”, hẳn người đọc sẽ tự hỏi , những nỗi niềm làm anh say đến suốt đời là gì? và điều gì làm nên hạnh phúc của anh trong thơ ?

“Đi bên những hàng cây/ Thấy hồn xanh trời đất./Đi bên những cánh đồng/Nhịp mùa màng tất bật
Đi bên những dòng sông/ Sông nâng đời dào dạt/ Đi bên những con người/ Tình reo niềm chân chất

Ta như cây, như đồng
Ta như sông, như biển
Lòng tràn đầy thương mến
Với cuộc đời nâng niu”
(Đi Bên Những Hàng Cây )

Đàm Chu Văn mang hồn thơ ấy ngắm nhìn quê hương, đất nước. Đâu anh cũng thấy rạng rỡ những sinh sôi đang từng ngày từng giờ vươn tới xa sau

Trời đã cao thêm đất sáng thêm
Nguy nga công nghiệp gọi trăm miền
Hương vườn vấn vít lùa cao ốc
Lối cũ người thương mỏi mắt nhìn
(Nhơn Trạch )

Mỗi giây phút tươi ròng sinh nở
Ngàn suối trăm sông dồn tụ mỡ màu
Ngẩng mặt Thái Bình Dương lồng lộng
Xanh vô cùng vô tận xa sau
(Mũi Cà Mau )

Anh ngạc nhiên khi về thăm quê, một quê hương “tường cao cổng kín giăng đầy”. Đứng trên đỉnh Lang Bian, tâm hồn anh chất ngất niềm say :”phố xá, ngàn thông, sông hồ… như tranh vẽ / đất nước muôn trùng ghì riết lòng yêu”. Cảm thức về quê hương đất nước của anh đã gọi tới nghìn xưa và xa tới ngàn sau, đâu đây câu thơ có cái hào sảng của thi nhân xưa đắm mình cùng non xanh nước biếc cẩm tú.

Nhưng ĐCV là con người của thực tại, của hôm nay. Nhìn dấu tích xưa ở thành nội Huế, anh chỉ thấy rêu phong :”Ông hoàng bà chuá giờ đâu / Bơ vơ chỉ thấy một màu rêu phong”. Nụ cười hiền từ của Phật ở Bay-on (Angkor Thom) như một giải thóat, anh chỉ thấy đó là “nụ cười đá” mà kiếp người mãi là kiếp khổ. Anh trở về với Hội Gióng, để âm vang hùng tráng của lịch sử theo với Gióng bay mãi lên “Nước mấy nghìn năm nghìn lần giặc giã/ giáo gươm rèn lẫn với cuốc cày../Bao thế hệ nối nhau ra trận /Tự trong nôi đã nghe giục lên đường”. Kết bài thơ là một tứ rất hay và mới

Giặc tan rồi ngựa sắt khuất ngàn mây
Dường như sắc lửa còn vương lại
Thắm hoa đào hớn hở trĩu trên tay”

Cái say đất nước tươi đẹp hùng vĩ chất ngất bao nhiêu thì cái bi thương trĩu lòng trước những đồng đội hy sinh lại níu chặt lấy trái tim anh bấy nhiêu. Đó cũng là một cảm thức say, say nghĩa say tình. Bài Viếng Bạn Ở Nghiã Trang Biên Giới Tây Nam là một bài làm chếnh choáng nỗi đau nơi tâm hồn người đọc về những người lính trẻ chết trận. Câu thơ vừa có chiều rất sâu của lòng yêu thương vưà có những tứ thơ ánh lên sự tài hoa

Anh em về hết cả rồi
Bạn còn nằm lại với nơi đất này
Hai mươi năm lọt kẽ tay
Mẹ cha đã khuất bóng mây cuối chiều
Còn lời hò hẹn người yêu
Vẫn lơ lửng tựa trăng treo trước rừng
Nước non nợ đã trả xong
Bạn nằm ngủ giữa hương đồng mà đau
Bao người lính trẻ quê đâu
Máu xương gửi lại điạ đầu Tây Ninh
Bốn bề trời đất lặng thinh
Ngỡ như chẳng có chiến tranh ngày nào…

Bên dưới cái đẹp của cảnh, cái đẹp của câu chữ ; bên dưới sự bình yên “như chẳng có chiến tranh ngày nào “ là nỗi đau thấm thiá lắm. Nếu đọc bài thơ thật chậm và lắng lòng ta theo từng con chữ, bất giác ta phải đưa tay ôm lấy ngực, vì nỗi bi thương cứ nhói vào tim, không sao yên tâm được. “Bạn nằm ngủ giữa hương đồng mà đau”. Câu thơ đẹp đến nỗi không thể đẹp hơn và thấm thiá không thể thấm thiá hơn một tấm lòng với đồng đội. Những bài Vô Danh, Tìm Cậu, Suối Săn Máu cũng đẹp, mênh mang nghiã tình và niềm đau như thế.

Tình cảm với cha , với mẹ cũng làm say hồn thơ Đàm Chu Văn. Anh viết về cha, mẹ, về người thân mà tâm hồn như có cánh bay. Anh viết kính tặng cha:

Ở Bắc nhớ cháu nhớ con
Vào Nam, để lại mảnh hồn ngoài quê
Mây lành vươn bóng chở che
Phân thân hai nửa đi về chiêm bao
(Hai Nửa)
Anh nói với mẹ bằng một giọng trẻ thơ rất đỗi chân thành và cảm động :

Mẹ ơi! / con sắp thành người đàn ông năm mươi tuổi mang nặng buồn vui của quá nửa đời người thế mà mỗi khi nhớ về mẹ mình vẫn khóc (Mẹ )

Anh chia sẻ với chị những thao thức hao mòn không gian thời gian

Gia tài chỉ một bức thư
Một lời hẹn ước gửi từ Trường Sơn
Thế mà mấy chục năm trường
Chị thao thức với đêm mòn trăng sao
Tuổi xuân anh gửi chiến hào
Tuổi xuân chị gửi dầu hao bấc gầy
Những đêm về lạnh mưa bay
Chăn đơn gối chiếc vơi đầy tâm tư
Giật mình quờ một tiếng ru
Giật mình mình lại vưà mơ thấy mình…

Bài thơ có những câu hay đến kinh ngạc. Nó diễn tả được tâm tình thuỷ chung, cuộc sống đằng đẵng cô độc, và những khao khát cháy lòng của chị. Tình thương tác giả dành cho chị ẩn kín sau những mỏi mòn gầy hao lạnh buốt. Tứ thơ thấp thoáng phong vị sang trọng cuả câu thơ Kiều, óng ánh thân tình ca dao, nhưng được dệt bằng chất liệu hiện đại. Bài thơ vừa là tình cảnh riêng của chị , nhưng cũng là cảnh đời chung của bao nhiêu chị có chồng hy sinh ở Trường Sơn. Vì thế sức lan tỏa cảm xúc thật mạnh mẽ. Đã có mấy nhà thơ viết được những câu thơ xúc động về những người vợ trẻ như thế.

Hồn thơ dạt dào yêu thương và nhân hậu của Đàm Chu văn cũng ôm ấp những thân phận, những cảnh ngộ đầy vơi nỗi buồn: những đưá trẻ đánh giày, em bé lang thang dưới mưa, không biết về đâu,những công nhân cạo mủ cao su, những công nhân Long Bình ”kíp ca cuốn lốc nhịp đời / nhớ thương gửi ở đầy vơi nỗi niềm “; “ bữa cơm trưa vội vã /tháng hai kỳ lĩnh lương chớp loá / tính sao cho đủ mọi bề..”những lưng trần quần cụt” dưới ruộng đồng…

Gữa mênh mông dạt dào
Tưởng nghe thấy mùi bùn tanh nơi đồng ruộng
Những áo nâu áo xám mặn mòi
Những lưng trần quần cụt
Một đời ta còn nợ mồ hôi…
…có nỗi buồn ướp nắng
Bay theo
(Tản mạn ở nhà sáng tác Nha Trang )

Cảm thức về quê hương, đất nước, lịch sử cao rộng, cảm thức về những nghiã tình sâu nặng, cảm thức về thời đại tuy phơi phới niềm tin nhưng còn nhiều nỗi buồn ; tất cả ướp trong một trái tim giàu lòng yêu người yêu đời ; đó là căn cốt hồn thơ Đàm Chu Văn. Trong cuộc sống đời thường, bao nhiều nhà thơ bị quay quắt, bị vong thân trong giòng xoáy của đời sống công nghiệp, của những nhập nhoà sáng tối rác rưởi chỗ này chỗ kia, cuả những tha hoá nhầy nhuạ, thì Đàm Chu Văn vẫn giữ được hồn thơ trong trẻo, tinh khôi và hồn hậu, đó là cá tính sáng tạo riêng của anh.

Cá tính sáng tạo này đặc sắc tài hoa trong những bài thơ tình viết bằng lục bát. Xin đọc Bỗng Nhiên Nhớ

Tưởng bâng quơ ấy là thôi
Bỗng nhiên lại nhớ một người đẩu đâu
Phải duyên sao chẳng tình đầu
Nợ nần sao chẳng kiếp sau đợi chờ
Thản nhiên người bước vào thơ
Làm xao xác cả cõi bờ nhân gian
Ta đi nhặt tiếng ve tàn
Ai xui cho hạ nắng tràn lên xanh
Ta về nhặt nỗi mong manh
Nhặt câu Kiều lẩy ghép thành ca dao
Nhặt hoa quỳnh ướp chiêm bao
Đợi trăng nghiêng xuống cõi nào vân vi

Mới tiếp cận bài thơ, người đọc gặp một bóng dáng quen quen trong Tương Tư của Nguyễn Bính. Cũng là ca dao điệu nói, cũng là tâm trạng dằn vặt nhớ nhung giãi bày. Câu thơ cũng được dệt bằng chất liệu của bút pháp lãng mạn thời Nguyễn Bính, thế nhưng những tứ thơ lạ bỗng sáng loá lên, đến ngỡ ngàng

Ta đi nhặt tiếng ve tàn
Ai xui cho hạ nắng tràn lên xanh

Tương tư mà hồn thơ tươi xanh quá . Tiếng ve tàn nhưng mùa hạ vẫn rực rỡ đến chói chan. Một ngày óng chuốt dịu dàng và một đêm quý phái thơm nức hương hoa

Nhặt hoa quỳnh ướp chiêm bao
Đợi trăng nghiêng xuống cõi nào vân vi

Những bài Ai Đem Thương Nhớ, Bao Giờ Cho Đến Sớm Mai, Mắt Đen,Ru Em, Bâng Quơ Lục Bát đều có chất tài hoa của “giống đa tình “ làm thơ. Tôi rất thích những bài như thế bởi vì nó bộc lộ chất thi sĩ cuả Đàm Chu Văn.

Nhà thơ phải có phẩm chất thi sĩ . Không có phẩm chất thi sĩ thì thơ chỉ là văn xuôi bắt thành vần. Nhất là khi viết lục bát, người không có tư chất thi sĩ thì chỉ có thể viết những bài ca, bài vè. Lục bát là thể thơ thách đố phẩm chất thi sĩ căng thẳng nhất. Muốn vượt qua được những thách đố ấy người làm thơ phải có tài năng sáng tạo ngôn ngữ, phải có tư duy nghệ thuật riêng cùng với tố chất của giống đa tình. Đàm Chu Văn chưa đạt tới kiểu tư duy nghệ thuật mới, song anh có nhiều tứ thơ mới , đủ làm nên thơ hay, đủ tạc nên một khuôn mặt có đường nét cạnh sắc dễ nhận ra giữa nhiều nhà thơ.

Đó là một khuôn mặt sáng tươi trẻ thơ, đầy ắp niềm vui .”Mười lăm mười bảy tươi xinh /Ước gì giữ mãi tuổi mình bấy nhiêu”, dù có những vụng dại, khuôn mặt ấy vẫn trong. “Mối tình đầu vụng dại/Nỗi đắng đót trong ngần”(Hoa Tầm Xuân ), và cái nhìn rất xanh .”Vịn vào nắng mai / Mắt xanh sức trẻ / Lòng như chớm hé / bao nhiêu hẹn hò”(Ru) “Ta về ta nhớ muà xuân / Ta về ta nhớ trắng ngần màu trăng “

Khuôn mặt ấy cũng thoáng có nét buồn riêng, ẩn hiện những nét nhăn thế sự dày vò (Nhiều Khi ), Tuy vậy, nỗi buồn ấy qua nhanh vì cuốc sống chảy đi cuồn cuộn “Chẳng kịp buồn dai / buồn trang sức / phố hối hả vào đêm căng nức/dòng Đồng Nai sôi réo những con đường “(Chiều Biên Hoà ). Thơ anh lấp lánh sắc màu, dạt dào hân hoan . Thơ anh vượt lên nỗi đau, vượt lên những cực nhọc đời thường. Thơ anh nói được cái đẹp cao cả và phát hiện cái đẹp mong manh. Cả cái rác, cái dơ, cái sex cũng thăng hoa trong thơ anh thành cái đẹp ( xin đọc Thời Đại, Thiếu Nữ, Chiều Biên Hoà, Những Câu Thơ Đã Tặng )

Cái thú vị khi đọc thơ Đàm Chu Văn là những tứ thơ mới lạ , ẩn mật và vụt lớn lên có thể làm ta ngây ngất. xin đọc

Mãi không về những người trai khiêng kiệu
Giặc tan rồi ngựa sắt khuất ngàn mây
Dường như sắc lửa còn vương lại
Thắm hoa đào hớn hở trĩu trên tay
(Hội Gióng )

Thời gian xô về hai phiá
Riêng ta tha thẩn bước dừng
Quê hương bé thơ chập chững
Đã ùn mây trắng sau lưng
(Thăm Quê )

Muốn quên thì giục nhớ
Quảy càn khôn lên ngàn
(Nhiều Khi )

Ngược miền xanh xưa
Gặt về nuối tiếc
Vẫn còn phía trước
Gió đầy hai vai
(Ru)

Đàm Chu Văn vẫn sáng tác bằng thi pháp thơ truyền thống , đôi khi sự sáng tạo không vượt xa được con đường cũ . Anh cũng không thành công trong thể loại Tứ Tuyệt hiện đại, có lẽ vì anh chưa khai thác được những đặc trưng thi pháp của Tứ Tuyệt truyền thống. Thơ anh là cây đời xanh tươi , anh chưa vươn tới kiểu thơ tư tưởng. Thực ra tư tưởng trong thơ anh là cái nhìn cuộc đời tươi xanh, là tấm lòng nhân hậu và lý tưởng thẩm mỹ giàu chất nhân văn. Tôi tin rằng với tư chất tài hoa, anh sẽ còn viết được nhiều bài thơ hay, vì anh vẫn còn rong ruổi giữa Hai Phiá Thời Gian với tấm lòng rộng mở và hồn thơ trong trẻo reo vui.

Tháng 9/2009

'ĐI SUỐT ĐỜI CHƯA HẾT NIỀM SAY'

Add new post
MMS blogging: blog+zxczaqih@my.opera.com

"ĐI SUỐT ĐỜI CHƯA HẾT NIỀM SAY" Bùi Công Thuấn đọc thơ Đàm Chu Văn
Friday, 16. October 2009, 11:23:27

ĐI SUỐT ĐỜI CHƯA HẾT NIỀM SAY
(Đọc tập thơ Hai Phía Thời Gian của Đàm Chu Văn.Nxb HNV.2009)

Bùi Công Thuấn

NHÀ THƠ ĐÀM CHU VĂN, HỘI VIÊN HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM, HIỆN CÔNG TÁC TẠI BAN TUYÊN GIÁO TỈNH UỶ TỈNH ĐỒNG NAI. ANH CŨNG LÀ TỔNG BIÊN TẬP TẠP CHÍ VĂN NGHỆ ĐỒNG NAI.ANH ĐÃ IN NHIỀU TẬP THƠ. VƯÀ QUA ANH MỚI ẤN HÀNH TẬP THƠ HAI PHIÁ THỜI GIAN.BCT XIN CHIA SẺ VỚI ANH NHỮNG GÌ MÌNH CẢM NHẬN ĐƯỢC QUA TẬP THƠ NÀY


Chân dung nhà thơ Đàm Chu Văn

Đàm Chu Văn viết :” Đi suốt đời chưa hết niềm say”, hẳn người đọc sẽ tự hỏi , những nỗi niềm làm anh say đến suốt đời là gì? và điều gì làm nên hạnh phúc của anh trong thơ ?

“Đi bên những hàng cây/ Thấy hồn xanh trời đất./Đi bên những cánh đồng/Nhịp mùa màng tất bật
Đi bên những dòng sông/ Sông nâng đời dào dạt/ Đi bên những con người/ Tình reo niềm chân chất

Ta như cây, như đồng
Ta như sông, như biển
Lòng tràn đầy thương mến
Với cuộc đời nâng niu”
(Đi Bên Những Hàng Cây )

Đàm Chu Văn mang hồn thơ ấy ngắm nhìn quê hương, đất nước. Đâu anh cũng thấy rạng rỡ những sinh sôi đang từng ngày từng giờ vươn tới xa sau

Trời đã cao thêm đất sáng thêm
Nguy nga công nghiệp gọi trăm miền
Hương vườn vấn vít lùa cao ốc
Lối cũ người thương mỏi mắt nhìn
(Nhơn Trạch )

Mỗi giây phút tươi ròng sinh nở
Ngàn suối trăm sông dồn tụ mỡ màu
Ngẩng mặt Thái Bình Dương lồng lộng
Xanh vô cùng vô tận xa sau
(Mũi Cà Mau )

Anh ngạc nhiên khi về thăm quê, một quê hương “tường cao cổng kín giăng đầy”. Đứng trên đỉnh Lang Bian, tâm hồn anh chất ngất niềm say :”phố xá, ngàn thông, sông hồ… như tranh vẽ / đất nước muôn trùng ghì riết lòng yêu”. Cảm thức về quê hương đất nước của anh đã gọi tới nghìn xưa và xa tới ngàn sau, đâu đây câu thơ có cái hào sảng của thi nhân xưa đắm mình cùng non xanh nước biếc cẩm tú.

Nhưng ĐCV là con người của thực tại, của hôm nay. Nhìn dấu tích xưa ở thành nội Huế, anh chỉ thấy rêu phong :”Ông hoàng bà chuá giờ đâu / Bơ vơ chỉ thấy một màu rêu phong”. Nụ cười hiền từ của Phật ở Bay-on (Angkor Thom) như một giải thóat, anh chỉ thấy đó là “nụ cười đá” mà kiếp người mãi là kiếp khổ. Anh trở về với Hội Gióng, để âm vang hùng tráng của lịch sử theo với Gióng bay mãi lên “Nước mấy nghìn năm nghìn lần giặc giã/ giáo gươm rèn lẫn với cuốc cày../Bao thế hệ nối nhau ra trận /Tự trong nôi đã nghe giục lên đường”. Kết bài thơ là một tứ rất hay và mới

Giặc tan rồi ngựa sắt khuất ngàn mây
Dường như sắc lửa còn vương lại
Thắm hoa đào hớn hở trĩu trên tay”

Cái say đất nước tươi đẹp hùng vĩ chất ngất bao nhiêu thì cái bi thương trĩu lòng trước những đồng đội hy sinh lại níu chặt lấy trái tim anh bấy nhiêu. Đó cũng là một cảm thức say, say nghĩa say tình. Bài Viếng Bạn Ở Nghiã Trang Biên Giới Tây Nam là một bài làm chếnh choáng nỗi đau nơi tâm hồn người đọc về những người lính trẻ chết trận. Câu thơ vừa có chiều rất sâu của lòng yêu thương vưà có những tứ thơ ánh lên sự tài hoa

Anh em về hết cả rồi
Bạn còn nằm lại với nơi đất này
Hai mươi năm lọt kẽ tay
Mẹ cha đã khuất bóng mây cuối chiều
Còn lời hò hẹn người yêu
Vẫn lơ lửng tựa trăng treo trước rừng
Nước non nợ đã trả xong
Bạn nằm ngủ giữa hương đồng mà đau
Bao người lính trẻ quê đâu
Máu xương gửi lại điạ đầu Tây Ninh
Bốn bề trời đất lặng thinh
Ngỡ như chẳng có chiến tranh ngày nào…

Bên dưới cái đẹp của cảnh, cái đẹp của câu chữ ; bên dưới sự bình yên “như chẳng có chiến tranh ngày nào “ là nỗi đau thấm thiá lắm. Nếu đọc bài thơ thật chậm và lắng lòng ta theo từng con chữ, bất giác ta phải đưa tay ôm lấy ngực, vì nỗi bi thương cứ nhói vào tim, không sao yên tâm được. “Bạn nằm ngủ giữa hương đồng mà đau”. Câu thơ đẹp đến nỗi không thể đẹp hơn và thấm thiá không thể thấm thiá hơn một tấm lòng với đồng đội. Những bài Vô Danh, Tìm Cậu, Suối Săn Máu cũng đẹp, mênh mang nghiã tình và niềm đau như thế.

Tình cảm với cha , với mẹ cũng làm say hồn thơ Đàm Chu Văn. Anh viết về cha, mẹ, về người thân mà tâm hồn như có cánh bay. Anh viết kính tặng cha:

Ở Bắc nhớ cháu nhớ con
Vào Nam, để lại mảnh hồn ngoài quê
Mây lành vươn bóng chở che
Phân thân hai nửa đi về chiêm bao
(Hai Nửa)
Anh nói với mẹ bằng một giọng trẻ thơ rất đỗi chân thành và cảm động :

Mẹ ơi! / con sắp thành người đàn ông năm mươi tuổi mang nặng buồn vui của quá nửa đời người thế mà mỗi khi nhớ về mẹ mình vẫn khóc (Mẹ )

Anh chia sẻ với chị những thao thức hao mòn không gian thời gian

Gia tài chỉ một bức thư
Một lời hẹn ước gửi từ Trường Sơn
Thế mà mấy chục năm trường
Chị thao thức với đêm mòn trăng sao
Tuổi xuân anh gửi chiến hào
Tuổi xuân chị gửi dầu hao bấc gầy
Những đêm về lạnh mưa bay
Chăn đơn gối chiếc vơi đầy tâm tư
Giật mình quờ một tiếng ru
Giật mình mình lại vưà mơ thấy mình…

Bài thơ có những câu hay đến kinh ngạc. Nó diễn tả được tâm tình thuỷ chung, cuộc sống đằng đẵng cô độc, và những khao khát cháy lòng của chị. Tình thương tác giả dành cho chị ẩn kín sau những mỏi mòn gầy hao lạnh buốt. Tứ thơ thấp thoáng phong vị sang trọng cuả câu thơ Kiều, óng ánh thân tình ca dao, nhưng được dệt bằng chất liệu hiện đại. Bài thơ vừa là tình cảnh riêng của chị , nhưng cũng là cảnh đời chung của bao nhiêu chị có chồng hy sinh ở Trường Sơn. Vì thế sức lan tỏa cảm xúc thật mạnh mẽ. Đã có mấy nhà thơ viết được những câu thơ xúc động về những người vợ trẻ như thế.

Hồn thơ dạt dào yêu thương và nhân hậu của Đàm Chu văn cũng ôm ấp những thân phận, những cảnh ngộ đầy vơi nỗi buồn: những đưá trẻ đánh giày, em bé lang thang dưới mưa, không biết về đâu,những công nhân cạo mủ cao su, những công nhân Long Bình ”kíp ca cuốn lốc nhịp đời / nhớ thương gửi ở đầy vơi nỗi niềm “; “ bữa cơm trưa vội vã /tháng hai kỳ lĩnh lương chớp loá / tính sao cho đủ mọi bề..”những lưng trần quần cụt” dưới ruộng đồng…

Gữa mênh mông dạt dào
Tưởng nghe thấy mùi bùn tanh nơi đồng ruộng
Những áo nâu áo xám mặn mòi
Những lưng trần quần cụt
Một đời ta còn nợ mồ hôi…
…có nỗi buồn ướp nắng
Bay theo
(Tản mạn ở nhà sáng tác Nha Trang )

Cảm thức về quê hương, đất nước, lịch sử cao rộng, cảm thức về những nghiã tình sâu nặng, cảm thức về thời đại tuy phơi phới niềm tin nhưng còn nhiều nỗi buồn ; tất cả ướp trong một trái tim giàu lòng yêu người yêu đời ; đó là căn cốt hồn thơ Đàm Chu Văn. Trong cuộc sống đời thường, bao nhiều nhà thơ bị quay quắt, bị vong thân trong giòng xoáy của đời sống công nghiệp, của những nhập nhoà sáng tối rác rưởi chỗ này chỗ kia, cuả những tha hoá nhầy nhuạ, thì Đàm Chu Văn vẫn giữ được hồn thơ trong trẻo, tinh khôi và hồn hậu, đó là cá tính sáng tạo riêng của anh.

Cá tính sáng tạo này đặc sắc tài hoa trong những bài thơ tình viết bằng lục bát. Xin đọc Bỗng Nhiên Nhớ

Tưởng bâng quơ ấy là thôi
Bỗng nhiên lại nhớ một người đẩu đâu
Phải duyên sao chẳng tình đầu
Nợ nần sao chẳng kiếp sau đợi chờ
Thản nhiên người bước vào thơ
Làm xao xác cả cõi bờ nhân gian
Ta đi nhặt tiếng ve tàn
Ai xui cho hạ nắng tràn lên xanh
Ta về nhặt nỗi mong manh
Nhặt câu Kiều lẩy ghép thành ca dao
Nhặt hoa quỳnh ướp chiêm bao
Đợi trăng nghiêng xuống cõi nào vân vi

Mới tiếp cận bài thơ, người đọc gặp một bóng dáng quen quen trong Tương Tư của Nguyễn Bính. Cũng là ca dao điệu nói, cũng là tâm trạng dằn vặt nhớ nhung giãi bày. Câu thơ cũng được dệt bằng chất liệu của bút pháp lãng mạn thời Nguyễn Bính, thế nhưng những tứ thơ lạ bỗng sáng loá lên, đến ngỡ ngàng

Ta đi nhặt tiếng ve tàn
Ai xui cho hạ nắng tràn lên xanh

Tương tư mà hồn thơ tươi xanh quá . Tiếng ve tàn nhưng mùa hạ vẫn rực rỡ đến chói chan. Một ngày óng chuốt dịu dàng và một đêm quý phái thơm nức hương hoa

Nhặt hoa quỳnh ướp chiêm bao
Đợi trăng nghiêng xuống cõi nào vân vi

Những bài Ai Đem Thương Nhớ, Bao Giờ Cho Đến Sớm Mai, Mắt Đen,Ru Em, Bâng Quơ Lục Bát đều có chất tài hoa của “giống đa tình “ làm thơ. Tôi rất thích những bài như thế bởi vì nó bộc lộ chất thi sĩ cuả Đàm Chu Văn.

Nhà thơ phải có phẩm chất thi sĩ . Không có phẩm chất thi sĩ thì thơ chỉ là văn xuôi bắt thành vần. Nhất là khi viết lục bát, người không có tư chất thi sĩ thì chỉ có thể viết những bài ca, bài vè. Lục bát là thể thơ thách đố phẩm chất thi sĩ căng thẳng nhất. Muốn vượt qua được những thách đố ấy người làm thơ phải có tài năng sáng tạo ngôn ngữ, phải có tư duy nghệ thuật riêng cùng với tố chất của giống đa tình. Đàm Chu Văn chưa đạt tới kiểu tư duy nghệ thuật mới, song anh có nhiều tứ thơ mới , đủ làm nên thơ hay, đủ tạc nên một khuôn mặt có đường nét cạnh sắc dễ nhận ra giữa nhiều nhà thơ.

Đó là một khuôn mặt sáng tươi trẻ thơ, đầy ắp niềm vui .”Mười lăm mười bảy tươi xinh /Ước gì giữ mãi tuổi mình bấy nhiêu”, dù có những vụng dại, khuôn mặt ấy vẫn trong. “Mối tình đầu vụng dại/Nỗi đắng đót trong ngần”(Hoa Tầm Xuân ), và cái nhìn rất xanh .”Vịn vào nắng mai / Mắt xanh sức trẻ / Lòng như chớm hé / bao nhiêu hẹn hò”(Ru) “Ta về ta nhớ muà xuân / Ta về ta nhớ trắng ngần màu trăng “

Khuôn mặt ấy cũng thoáng có nét buồn riêng, ẩn hiện những nét nhăn thế sự dày vò (Nhiều Khi ), Tuy vậy, nỗi buồn ấy qua nhanh vì cuốc sống chảy đi cuồn cuộn “Chẳng kịp buồn dai / buồn trang sức / phố hối hả vào đêm căng nức/dòng Đồng Nai sôi réo những con đường “(Chiều Biên Hoà ). Thơ anh lấp lánh sắc màu, dạt dào hân hoan . Thơ anh vượt lên nỗi đau, vượt lên những cực nhọc đời thường. Thơ anh nói được cái đẹp cao cả và phát hiện cái đẹp mong manh. Cả cái rác, cái dơ, cái sex cũng thăng hoa trong thơ anh thành cái đẹp ( xin đọc Thời Đại, Thiếu Nữ, Chiều Biên Hoà, Những Câu Thơ Đã Tặng )

Cái thú vị khi đọc thơ Đàm Chu Văn là những tứ thơ mới lạ , ẩn mật và vụt lớn lên có thể làm ta ngây ngất. xin đọc

Mãi không về những người trai khiêng kiệu
Giặc tan rồi ngựa sắt khuất ngàn mây
Dường như sắc lửa còn vương lại
Thắm hoa đào hớn hở trĩu trên tay
(Hội Gióng )

Thời gian xô về hai phiá
Riêng ta tha thẩn bước dừng
Quê hương bé thơ chập chững
Đã ùn mây trắng sau lưng
(Thăm Quê )

Muốn quên thì giục nhớ
Quảy càn khôn lên ngàn
(Nhiều Khi )

Ngược miền xanh xưa
Gặt về nuối tiếc
Vẫn còn phía trước
Gió đầy hai vai
(Ru)

Đàm Chu Văn vẫn sáng tác bằng thi pháp thơ truyền thống , đôi khi sự sáng tạo không vượt xa được con đường cũ . Anh cũng không thành công trong thể loại Tứ Tuyệt hiện đại, có lẽ vì anh chưa khai thác được những đặc trưng thi pháp của Tứ Tuyệt truyền thống. Thơ anh là cây đời xanh tươi , anh chưa vươn tới kiểu thơ tư tưởng. Thực ra tư tưởng trong thơ anh là cái nhìn cuộc đời tươi xanh, là tấm lòng nhân hậu và lý tưởng thẩm mỹ giàu chất nhân văn. Tôi tin rằng với tư chất tài hoa, anh sẽ còn viết được nhiều bài thơ hay, vì anh vẫn còn rong ruổi giữa Hai Phiá Thời Gian với tấm lòng rộng mở và hồn thơ trong trẻo reo vui.

Tháng 9/2009

Thứ Ba, 6 tháng 10, 2009

Phát hành sách CHÚT TÌNH TRI ÂM của Bùi Công Thuấn


Phát hành sách CHÚT TÌNH TRI ÂM- lý luận phê bình của Bùi Công Thuấn
Tuesday, 6. October 2009, 21:34:50


NHÀ VĂN KHÔI VŨ GIỚI THIỆU TRÊN BLOG http://khoivudongnai.vnweblogs.com/






Tập sách Lý luận & Phê bình Văn chương có nhan đề CHÚT TÌNH TRI ÂM của tác giả Bùi Công Thuấn ( Đồng Nai) vừa được in xong. Sách được NXB Hội Nhà văn cấp giấy phép sau khi "được" cắt đi vài đoạn mà BTV cho là "không nên xuất hiện trên văn bản". Với 488 trang 14x20,5cm, CHÚT TÌNH TRI ÂM là một tập sách dày dặn cả về hình thức lẫn nội dung của Bùi Công Thuấn. Nhiều bài trong tập sách này đã được giới thiệu trên các báo Văn Nghệ trong nước, trên các website văn chương và không ít bài đã gây tranh luận sôi nổi. Hy vọng sau khi sách ra mắt bạn đọc, sẽ tiếp tục có những tranh luận khác (Lý luận & Phê bình mà ai đọc cũng thấy "vui" thì còn gì để nói nữa!)

Quen biết Bùi Công Thuấn từ lâu, cách nay ít năm, KV đã giúp anh in tập truyện ngắn HẠNH (cũng xin giấy phép tại NXB Hội Nhà văn), nay lại lo cho anh cuốn CHÚT TÌNH TRI ÂM. Khác với cuốn trước tương đối dễ dàng hơn trong việc biên tập, cuốn sách này của BCT được "soi" hơi bị kỹ nên phải sau mấy tháng sách mới in xong.



Dù sao thì CHÚT TÌNH TRI ÂM cũng là một "đứa con tinh thần" mới nhất của BCT được ra đời. Tương lai của "nó" còn tùy thuộc vào dư luận bạn đọc, nhưng trước mắt, KV xin chúc mừng Bùi Công Thuấn và trân trọng giới thiệu với bạn bè khắp nơi. Sách đề giá 70.000đ, các bạn muốn có sách xin liên hệ với tác giả theođịa chỉ email: buicongthuan2401ks@yahoo.com

(Phần "quảng cáo" này do KV tự ý viết, không phải là ý kiến của BCT)

Phát hành sách CHÚT TRÌNH TRI ÂM của Bùi Công Thuấn


Phát hành sách CHÚT TÌNH TRI ÂM- lý luận phê bình của Bùi Công Thuấn
Tuesday, 6. October 2009, 21:34:50


NHÀ VĂN KHÔI VŨ GIỚI THIỆU TRÊN BLOG http://khoivudongnai.vnweblogs.com/






Tập sách Lý luận & Phê bình Văn chương có nhan đề CHÚT TÌNH TRI ÂM của tác giả Bùi Công Thuấn ( Đồng Nai) vừa được in xong. Sách được NXB Hội Nhà văn cấp giấy phép sau khi "được" cắt đi vài đoạn mà BTV cho là "không nên xuất hiện trên văn bản". Với 488 trang 14x20,5cm, CHÚT TÌNH TRI ÂM là một tập sách dày dặn cả về hình thức lẫn nội dung của Bùi Công Thuấn. Nhiều bài trong tập sách này đã được giới thiệu trên các báo Văn Nghệ trong nước, trên các website văn chương và không ít bài đã gây tranh luận sôi nổi. Hy vọng sau khi sách ra mắt bạn đọc, sẽ tiếp tục có những tranh luận khác (Lý luận & Phê bình mà ai đọc cũng thấy "vui" thì còn gì để nói nữa!)

Quen biết Bùi Công Thuấn từ lâu, cách nay ít năm, KV đã giúp anh in tập truyện ngắn HẠNH (cũng xin giấy phép tại NXB Hội Nhà văn), nay lại lo cho anh cuốn CHÚT TÌNH TRI ÂM. Khác với cuốn trước tương đối dễ dàng hơn trong việc biên tập, cuốn sách này của BCT được "soi" hơi bị kỹ nên phải sau mấy tháng sách mới in xong.



Dù sao thì CHÚT TÌNH TRI ÂM cũng là một "đứa con tinh thần" mới nhất của BCT được ra đời. Tương lai của "nó" còn tùy thuộc vào dư luận bạn đọc, nhưng trước mắt, KV xin chúc mừng Bùi Công Thuấn và trân trọng giới thiệu với bạn bè khắp nơi. Sách đề giá 70.000đ, các bạn muốn có sách xin liên hệ với tác giả theođịa chỉ email: buicongthuan2401ks@yahoo.com

(Phần "quảng cáo" này do KV tự ý viết, không phải là ý kiến của BCT)