album của BCT

album của BCT
một vài hình ảnh chia sẻ với bạn đọc

Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 22 tháng 6, 2013

SÓNG - SÓNG GIÓ - THÔNG ĐIỆP NGHỆ THUẬT

SÓNG, SÓNG GIÓ VÀ THÔNG ĐIỆP NGHỆ THUẬT
(Đọc bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, chương trình Ngữ Văn 12)



1.Câu chuyện tình yêu

Có lẽ trong chương trình Văn 12, không có tác phẩm nào được thầy cô giảng dạy bằng cảm hứng dào dạt như bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh. Bởi chuyện tình yêu là chuyện muôn đời, lại là chuyện rất riêng, “sống để bụng, chết mang theo”, mỗi người đều có những trải nghiệm mà người khác không có, thành ra, khi có dịp, nhất là dịp được công khai mở cửa trái tim, thầy cô nào cũng thao thao bất truyệt. Còn học trò thì há miệng nghe, như đàn chim non há mỏ chờ, khao khát. Và rồi giờ dạy trở thành giờ nói chuyện tình yêu. Thay vì phân tích khám phá, đánh giá tác phẩm, người giảng dạy lại chỉ dựa vào lời thơ để “tán”. Ngôn ngữ tán đạt đến sự tuyệt vời hơn cả sự tuyệt vời của bài thơ.

Cũng nên thông cảm, bởi trong chương trình Ngữ Văn 10 đến 12 đâu có tác phẩm nào đề cập trực diện đến tình yêu lứa đôi, điều mà trái tim lứa tuổi 18, đôi mươi đang rực lửa. Tình yêu của Thuý Kiều với Kim Trọng (Đoạn Trường Tân Thanh-Nguyễn Du) đã là “cổ” lắm rồi. Tình yêu của Chí Phèo và Thị Nở ư (Chí Phèo-Nam Cao)! chỉ tồn tại năm ngày và kết thúc bằng cái chết đẫm máu của Chí. Tương Tư của Nguyễn Bính chăng! thời đại công nghệ thông tin, chẳng còn bạn trẻ nào biết tương tư nữa. Nhớ nhau là bấm Smart phone, cần thì phóng lên xe, bay đến gặp, rồi quấn lấy nhau và… “yêu” thoải mái. Cặp đôi Tràng và người “vợ nhặt”(Vợ Nhặt-Kim Lân) có yêu nhau không hay bỗng dưng Tràng bị “đèo bòng”“của nợ đời” ? Mị và A Phủ (Vợ Chồng A Phủ- Tô Hoài) cùng nhau chạy trong rừng mấy tháng trời để trốn Pátra, không thấy nhà văn miêu tả họ yêu nhau thế nào. Chuyện tình của người đàn ông và người đàn bà chài (Chiếc Thuyền Ngoài Xa-Nguyễn Minh Châu) có tình có nghĩa và cuối cùng là…bạo hành, “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” không biết họ yêu nhau như thế nào?...

Thế nên Sóng là bài thơ đáp ứng đúng cái yêu cầu tâm lý của cả thầy lẫn trò, giờ học vô cùng say sưa, mê đắm, chia sẻ…

2.Sóng và “nghệ thuật “ diễn giải ngoài văn bản

Cho đến tận hôm nay, những lời có cánh này của Hoài Thanh viết về Thơ Mới (1930-1945) vẫn có ma lực ám ảnh nhiều người bình thơ :” “ Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy cận. Cả trời thực, trời mộng vẫn neo neo theo hồn ta.”(Một Thời Đại Trong Thi Ca).

Đó là cách bình thơ bằng trực giác cảm tính, không dựa trên những phương pháp khoa học để phân tích giá trị thơ. Nếu một người có tri thức rộng, trí tuệ sắc xảo, đọc nhiều, am hiểu thi pháp của nhiều nền thơ Đông-Tây , kim cổ ; lại có tấm lòng tri kỷ với văn chương, thì trực giác cảm tính của người ấy giúp cho họ nhận ra giá trị thơ ca rất nhanh, và có giá trị khả tín. Hoài Thanh là một nhà phê bình như thế. Bạn đọc bình thường cũng có thể cảm nhận thơ ca theo cách này. Chỉ cần đọc thoáng một lần, ta đã có thể nhận ra ngay một bài thơ hay, hay dở, mà chưa cần phải phân tích. Cảm thụ nghệ thuật là cảm thụ dựa trên cảm tính chủ quan.
Nhưng trong nhà trường, phân tích, giảng, bình thơ, không thể dựa vào cảm tính chủ quan, rồi áp đặt lên học sinh. Bởi tinh thần của thời đại hôm nay là tinh thần khoa học, chỉ những gì dựa trên phân tích khoa học mới có thể thuyết phục được người đọc. Phê bình văn học trở thành một khoa học, không còn là cảm thụ trong những lúc trà dư tửu hậu, những khi tom-chát rồi mặc sức tang bốc nhau bằng những lời châu ngọc như các cụ ngày xưa. Phê bình văn học phải dựa trên khoa học ngôn ngữ (những quy luật về dùng từ, về cú pháp, về ngữ pháp văn bản..), phải sử dụng những phương pháp có cơ sở khoa học (phương pháp phê bình Marxist, Phân Tâm Học, Phê Bình Mới, Cấu Trúc Luận, Giải Cấu Trúc, Thi Pháp Học, Phong Cách Học, các lý thuyết tiếp nhận văn học…)

Vậy mà, nhiều người phân tích bài thơ Sóng vẫn cứ ru học sinh trong những lời có cánh kiểu Hoài Thanh. Người ta cắt nhỏ bài thơ thành từng câu, rồi diễn giải ra ngoài văn bản tác phẩm (tán). Điều này có nguyên nhân của nó. Có thể là do quán tính bắt chước Hoài Thanh, cũng có thể là bất lực trước bức tường chữ nghĩa không thể vượt qua, khi tác phẩm văn chương được mã hoá bằng một kiểu tư duy nghệ thuật khác lạ (những người quen đọc tác phẩm Hiện Thực, sẽ bất lực khi tiếp cận với tác phẩm Siêu Thực). Vì thế, người phân tích thơ thoát ly văn bản, không bám vào cấu trúc tác phẩm để giải mã ý nghĩa, ngược lại, tự mình gán cho câu thơ những ý nghĩa mà cấu trúc văn bản không có. Không khám phá được cấu trúc văn bản cũng đồng nghĩa với sự bất lực trước toà lâu đài nghệ thuật, người phân tích thơ đành đứng bên ngoài mà tán tụng.

Xin đọc lời bình đoạn thơ sau :

- Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau

Sách Giáo Viên của Bộ Giáo Dục đã hướng dẫn thầy cô dạy học sinh như sau :”Soi vào lòng mình, đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi về khởi nguồn của tình yêu của mình, nhân vật trữ tình ở đây đã nói lên được một quy luật sâu xa của tình yêu. Cái điều mà Xuân Diệu trước kia đã nói như tổng kết một chân lý ‘Làm sao cắt nghĩa được tình yêu’ thì nay Xuân Quỳnh lại phát hiện ra, nhưng bằng trực cảm, bằng tất cả lòng mình, như lời thú nhận thành thực, hồn nhiên mà ý nhị sâu sắc” (1)

Tác giả Nguyễn Đức Hùng (1) 10 năm sau Sách Giáo Viên, cũng viết như vậy :”Tình yêu phải chăng là sự hướng về, nhưng sự hướng về lại không biết đâu là nguyên nhân, đâu là cội nguồn? Tình yêu ở chỗ nào, những rung động do dâu mà có? Hình như con người vẫn và mãi mãi ‘bé thơ’, ‘ngơ ngác’ trước tình yêu? Bởi nó như là hiện thân của quy luật thiên nhiêu sâu xa và bí hiểm:

Từ nơi nào sóng lên
. . . . . . . . . . . . . . . .
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu

Đây cũng chính là lời thú nhận vừa hồn nhiên vừa trăn trở nhưng cũng ý nhị, sâu lắng :”Em cũng không biết nữa”. Xuân Diệu :”Ông hoàng thơ tình” cũng đã từng hồn nhiên thú nhận:”Làm sao cắt nghĩa được tình yêu…” (tr.174)

Cả hai lời giảng trên chỉ là diễn thành văn xuôi nghĩa tường minh của câu thơ, rồi tán về “quy luật sâu xa của tình yêu”, “ Xuân Quỳnh lại phát hiện ra, nhưng bằng trực cảm, bằng tất cả lòng mình…”. Lời “tán” của Nguyễn Đức Hùng thực sự thô thiển! “Tình yêu ở chỗ nào, những rung động do dâu mà có? Hình như con người vẫn và mãi mãi ‘bé thơ’, ‘ngơ ngác’ trước tình yêu? Bởi nó như là hiện thân của quy luật thiên nhiêu sâu xa và bí hiểm..””Tán” như thế này chính là giết chết lòng yêu thơ, yêu nghệ thuật trong lòng học sinh (ấy là chưa nói việc “đạo” ý tưởng cùa Sách Giáo Viên), và thật ái ngại khi nhà trường dạy cho người trẻ cách nghĩ, cách nói, cách viết sáo rỗng, giả dối, qua những giờ giảng văn diễn giải ngoài văn bản.

Thực ra không cần mất thì giờ để diễn xuôi nghĩa tường minh của khổ thơ, bởi học sinh 12 dư khả năng để đọc hiểu ý nghĩa câu nói bộc trực này “ - Sóng bắt đầu từ gió/ Gió bắt đầu từ đâu?/ Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Trong thực tế, các cô gái cũng dư trình độ để trả lời vấn đề “Gió bắt đầu từ đâu”. Đoạn thơ này là đoạn bản lề, để chuyển ý từ phần I sang phần II trong cấu trúc của bài thơ. Nếu cần giải mã ngôn ngữ thơ, thì cần làm rõ tính trí tuệ và nữ tính của thơ Xuân Quỳnh (đây mới thực sự là giá trị thẩm mỹ của khổ thơ). Và muốn nói thêm, thì nên đặt vấn đề, tại sao khi nói đến tình yêu, Xuân Quỳnh lại tra hỏi về “sóng-gió” ? Đó là một thông điệp. Có thể nói với người trẻ về thông điệp này: bước vào tình yêu là bước vào sóng gió. Nếu thuyền tình không chắc, người cầm lái con thuyền không vững tay, thì con thuyền ấy sẽ đắm chìm. Bao nhiêu người trẻ đã trầm luân trong đau khổ, bất hạnh của tình yêu, là vì không vượt qua được sóng-gió…

3. Cấu trúc Sóng/Em

Nhìn tổng thể, bài thơ được cấu tứ thành ba đoạn. Mỗi đoạn tác giả khám phá hình tượng sóng trước, sau đó dùng sóng để đối sánh với tình yêu của nhân vật em, nâng tình yêu ấy lên. Xin đọc đoạn mở đầu.

Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sóng không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ

Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?

Nếu giảng từng khổ thơ, theo thứ tự, từ trên xuống, tức là phá vỡ cấu trúc đoạn thơ, người giảng thơ sẽ thất bại. Góc nhìn của nhân vật Em nằm ở khổ thứ ba. Em đang đứng trước bể nhìn sóng và suy nghĩ (cần chú ý điệp từ Em nghĩ, bộc lộ chất suy tư, kiều thơ tư tưởng của bài thơ). Khổ I và khổ II là nhận thức của Em khi nhìn sóng biển. Em không miêu tả sóng, mà nghĩ về biển rồi nhận ra những đặc tính trái ngược của sóng. Hình tượng Sóng ở phần mở đầu là sóng hiện thực, sóng biển, đối tượng suy tư khám phá của nhân vật em, và qua đó Em tỏ lộ tình yêu của mình. Sóng có những đặc tính trái ngược (Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ), nhưng cũng có những đặc tính vĩnh cửu (Ôi con sóng ngày xưa/ Và ngày sau vẫn thế).

Tình yêu cũng thế, cũng có những đặc tính trái ngược và vĩnh cửu như sóng, nhưng tình yêu còn là sự sống, sức sống của người trẻ (Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ). Xuân Quỳnh đã rất bạo khi dùng hình ảnh “bồi hồi trong ngực trẻ” để nói về một thuộc tính rất Người của tình yêu. Chỉ người trẻ mới yêu, mới cần yêu. Trái tim trẻ con và người già không có nhu cầu yêu. Ngực của một người cho biết thể lực và sức sống của người ấy. Một người nằm bất động trên giường, nếu ngực anh ta còn phập phồng, ta biết người ấy còn sống. Kim Lân miêu tả sự thảm thương của người “vợ nhặt” khi về nhà Tràng bằng hình ảnh, “Thị đảo mắt nhìn quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài…”. Tố Hữu diễn tả sức sống mãnh liệt của dân tộc trong Cách Mạng tháng Tám 1945 ,”Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió mạnh/ Thổi bùng lên. Tim bỗng hoá mặt trời”(Huế Tháng Tám ). Cũng chẳng phải vô tình, Chí Phèo đang yêu (được 5 ngày), bị bà cô Thị Nở ngăn cản, Chí xách dao đi “đến cái nhà con đĩ Nở kia. Đến để đâm chết cả nhà nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Mất tình yêu của Thị Nở, Chí mất tất cả.

Nói tất cả những điều ấy, Em gián tiếp tỏ lộ tình yêu của mình với anh trong tâm tưởng. Hình tượng sóng giúp cho sự bộc lộ tình yêu được kín đáo và sâu sắc. Trong bố cục khổ thơ, Xuân quỳnh đã dùng kỹ thuật của điện ảnh hiện đại. Màn hình hiện ngay lên, đột ngột, bất ngờ, một đối tượng : “ dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ”. Câu thơ chỉ có Tính Từ, không có Danh Từ, nên người đọc không hiểu Xuân Quỳnh đang nói về điều gì. Ông kính camera lùi lại dần dần, khổ II, rồi khổ III, người đọc mới nhận ra đối tượng ấy là biển, sóng biển, rồi nhận ra một nhân vật nữ (Em) đang đứng nhìn biển. Em đang suy tư về biển, về anh/ em, về tình yêu. Em lặng im, độc thọai, đối thoại trong tâm tưởng với anh. Bài thơ trở thành dòng suy tư (không phải dòng tâm trạng), thơ trữ tình trở thành thơ trí tuệ. Ở vào thời điểm Xuân Quỳnh làm bài thơ này (1967), thì kỹ thuật này gây được ấn tượng mạnh về sự mới lạ.

4. Bí mật của ngôn ngữ

Hai khổ thơ cuối chứa đựng một bí mật của cấu trúc ngôn ngữ mà ít người do vô tình, không nhận ra, vì thế đành phải diễn giải ngoài văn bản (tán)

Tôi xin trích một đoạn giảng bình trong một tài liệu ôn thi “đáng tin cậy” do tập thể nhiều GS-TS, Ths. viết: (3)

“Xuân Quỳnh không miêu tả các cung bậc, sắc thái yêu mà đi tri nhận tình yêu ở khía cạnh dâng hiến và khao khát hoà nhập, dẫu biết sự hoà nhập kia vẫn chỉ luôn là vọng tưởng :

Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Sự mong manh của kiếp người cũng là sự mong manh của kiếp tình. Con người đã không trường cửu thì làm gì có tình yêu trường cửu? Tuổi thanh xuân rồi sẽ chóng qua. Năm tháng vẫn lặng lẽ đi qua cuộc đời mà cuộc đời đâu thể níu giữ. Cảm giác về sự hữu hạn càng thôi thúc thêm cường độ yêu. Và càng yêu nhau say đắm, người đang yêu sẽ càng cảm thấy bất an trước sự nỗi chia lìa. Hình ảnh mây, biển, trời lại gợi cảnh trăng và nước trong thơ Hàn Mặc Tử: “có chở trăng về kịp tối nay” ? nhưng cả hai vẫn cũng vẫn cứ gợi cảm thức chia lìa : Như biển kia dẫu rộng/ Mây vẫn bay về xa” (tr.178-179)

Đoạn văn phân tích được viết bằng một kỹ thuật khá điêu luyện, lướt từ ý này sang ý khác, có vẻ uyên bác, có vẻ trải đời. Người viết xoay nhiều góc độ để quán chiếu đoạn thơ, rồi tiên đoán, dự cảm những khả năng, những suy nghiệm từng trải trong tình yêu. Nhưng cũng không sao che dấu được sự bất lực trướclâu đài ngôn ngữ thơ, không sao thâm nhập được vào cấu trúc ngôn ngữ của khổ thơ, nên đành đoán mò, và diễn giải lấy được. Làm gì có “Sự mong manh của kiếp người” trong khổ thơ này, làm gì có “thôi thúc thêm cường độ yêu.” Khổ thơ không có chữ nào nói đến “tuổi thanh xuân rồi sẽ qua”, “Và càng yêu nhau say đắm, người đang yêu sẽ càng cảm thấy bất an trước sự nỗi chia lìa” như trong Vội Vàng của Xuân Diệu. Sao lại cố ép Xuân Quỳnh giống Hàn Mặc Tử?! Nếu học sinh cần nắm “kiến thức cơ bản “ của khổ thơ này, thì qua đọan phân tích trên, học sinh sẽ nắm điều gì!

Đoạn kết gồm hai khổ thơ, là đoạn suy tư giàu chất trí tuệ về những quy luật của cuộc đời.

Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Chúng ta chú ý đến cấu trúc câu có những từ nối “Tuy, dẫu” và những phó từ “vẫn”. Khổ thơ gồm những câu ghép có cặp từ nối tương phản : “Tuy… nhưng; dẫu.. thì…” Xuân Quỳnh viết vế câu phía trước với nghĩa tường minh, và người đọc phải hiểu ẩn ý phía sau, có nghĩa tương phản.

Cuộc đời tuy dài thế (nhưng đời ta thì ngắn ngủi, “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy”- giới hạn về thời gian). Biển dẫu rộng (thì vẫn có bến bờ. Kha Luân Bố lênh đênh mãi trên biển, rồi cũng đến bờ chây Mỹ- tức là giới hạn về không gian). Thời gian đi qua, mây vẫn bay, đó là hai hiện tượng tự nhiên được dùng để nêu một chân lý. Từ “vẫn” được lặp lại, khẳng định tính quy luật của vấn đề. Quy luận đó là : Con người bị giới hạn trong thời gian và không gian, đó là một tất yếu, tất yếu như sự chuyển dịch của thời gian, sự biến đổi của mây. Xuân Quỳnh suy tư về những quy luật của đời sống hiện tại, tiếp cận với tư tưởng triết học. Nắm được quy luật ấy, Xuân quỳnh muốn vượt qua giới hạn, để vươn tới vĩnh cửu, thể hiện khát vọng về một tình yêu lớn, được yêu mãi ngàn năm. Sóng trở thành hình ảnh tượng trưng cho khát vọng của Xuân Quỳnh. Ta nói sóng trở thành biểu tượng cho khát vọng của Xuân Quỳnh, bởi những điều XQ mong muốn không thể thành hiện thực trong cỏi đời này.

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Đễ ngàn năm còn vỗ

5. Sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Xuân Quỳnh

Sách Giáo Viên của Bộ Giáo Dục kết luận thế này :”Mặc dù có những câu thơ còn nhẹ, chưa nhiều câu thật cô đọng, nhưng Sóng là bài thơ có cái hay ở toàn bài của tình cảm chân thành tha thiết và tự nhiên, hồn hậu, có chỗ đạt đến sâu sắc”(tr.168). Thầy cô dạy lớp 12 sẽ triển khai đánh giá này như thế nào?

Tôi nghĩ, cần phải khám phá cho được sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Xuân Quỳnh, bởi chính điều ấy mới làm nên giá trị bài thơ và cốt cách thơ Xuân Quỳnh, mới làm say lòng bao thế hệ độc giả, và bài thơ vẫn đứng được dù ngày hôm nay bạn trẻ đã yêu rất khác.

Trước XQ, nhiều nhà thơ đã viết về tình yêu. Hồ Xuân Hương dùng trầu, cau làm chất liệu (Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi-Mời Trầu). Tản Đà dùng hình ảnh con thuyền của ca dao:”Thuyền tình một chiếc con con/ Khoan khoan tay lái, ai còn đợi ai?...(4) Nguyễn Bính cũng khai thác giọng điệu và chất liệu thơ ca dân gian :”Nhà em có một giàn giầu/ Nhà anh có một hàng cau liên phòng” (Tương tư). Ca Dao viết :”Thuyền ơi có nhớ bến chăng / Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”; “Khăn thương nhớ ai/ khăn vắt lên vai…” XQ khai thác hình tượng Sóng (biển ) để khám phá, thể hiện tình yêu. Cái nhìn về tình yêu của XQ vượt thời gian, không gian (ôi con sóng ngày xưa/ và ngày sau vẫn thế..Trong biển lớn tình yêu/ Để ngàn năm còn vỗ). Khám phá hình tượng sóng để diễn tả đặc điểm của tình yêu là một khám phá đặc biệt sáng tạo. Tình yêu cũng như sóng (đặc điểm trái ngược và vĩnh cửu), Em hoá thân vào sóng để tỏ lộ chiều kích lớn lao của tình yêu của mình (chiều không gian, chiều thời gian, chiều tâm thức), Em cũng khẳng định những giá trị của tình yêu (như sự thuỷ chung, một tình yêu rộng lớn vĩnh cửu, không phải thứ tình yêu vị kỷ nhỏ hẹp…). So sánh sóng với trầu, cau, thuyền, bến, chiếc áo, cây cầu, miếng ngói… thì tầm vóc của sóng lớn lao hơn nhiều. Điều đáng nói là, qua sóng, Xuân Quỳnh đạt tới sự tiếp cận tư tưởng. Những người làm thơ tình yêu đi sau Xuân Quỳnh khó mà vượt qua được XQ trong việc khám phá tứ thơ giàu chất trí tuệ, và có tầm vóc lớn lao như Sóng.

Hình tượng sóng trở thành một hình tượng đối sánh với nhân vật em. Hình tượng này được phát triển trong suốt bài thơ, từ sóng biển- sóng hiện thực, thành sóng hoá thân của Em và sóng tượng trưng cho khát vọng tình yêu của em. Đây là hình tượng tư tưởng, bởi sóng là đối tượng suy tư, khám phá của XQ, sóng không phải là vật thể, khách thể vật chất như Nguyễn Tuân miêu tả trong Người Lái đò Sông Đà :”Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…” Điều này nâng chất trí tuệ thơ Xuân Quỳnh, mà Sách Giáo Viên gọi là có chỗ đạt đến sâu sắc.

Hình tượng Em cũng là một hình tượng có màu sắc riêng, đó là người phụ nữ đang yêu, vừa có nét truyền thống, vừa có phẩm chất hiện đại.Truyền thống ở tình yêu thuỷ chung, sự kín đáo nữ tính, giàu đức hy sinh (nhận về mình tất cả những thiệt thòi trong tình yêu cách trở xuôi ngược). Hiện đại ở hình ảnh người phụ nữ suy tư sâu sắc, có tầm tư duy rộng trong thời gian và không gian. Người phụ nữ ấy tự tra hỏi tìm ra ý nghĩa tình yêu, giá trị cuộc sống, độc thoại, đối thoại trong tâm tưởng chia sẻ với anh. Và trong tương quan với anh, người phụ nữ hoàn toàn tự lập, không lệ thuộc vào anh, thẳng thắn bộc lộ tình yêu. Nếu thân phận HXH trong Tự Tình, đầy xót xa, thì tính cách Em trong Sóng đầy bản lĩnh.

Điều đọng lại trong lòng người đọc, và cũng là thông điệp đáng trân trọng của XQ, là khát vọng về một tình yêu mãnh liệt, sâu sắc, rộng lớn trong không gian, vĩnh cửu với thời gian. Đó cũng là khát vọng của mọi người yêu nhau trong cõi thế gian này.

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Đễ ngàn năm còn vỗ


_____________
(1) Tr.166 - Sách chỉnh lý hợp nhất năm 2000
(2). Nguyễn Đức Hùng - Cẩm nang ôn luyện môn Văn- thi vào Cao Đẳng-Đại Học,Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2011)
(3) Ngữ Văn- Ôn thi tốt nghiệp và tuyển sinh quốc gia. Nhóm tác giả : PGS-TS Lê Huy Bắc, TS Phan Huy Dũng, PGS-Ts Nguyễn Đăng Điệp, Ts Đào Thị Thu Hằng, PGS-Ts Lê Quang Hưng, Ths Nguyễn Thị Tuyết Nhung, Ts Nguyễn Văn Phương, Ts Chu Văn Sơn, GS.Ts Trần Đăng Chuyển, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội 2011.
(4) Tản Đà-Hơn nhau một chén rượu mời-Tuyển tập tản Đà, Nxb Văn Học, Hà nội. 1986. Tr. 87

Thứ Năm, 20 tháng 6, 2013

ĐẤT NƯỚC - Nguyễn Khoa Điềm

Đất Nước là Đất Nước nhân dân
(Đọc đoạn trích ĐẤT NƯỚC, chương V Mặt Đường Khát Vọng của Nguyễn Khoa Điềm)

Bùi Công Thuấn


Đoạn trích Đất Nước, chương V trường ca Mặt Đường Khát Vọng của Nguyễn Khoa Điềm là một bài rất khó giảng trong chương trình Văn lớp 12.(SGK Văn 12, tập I, tr. 117, Nxb Giáo dục). Sách Giáo Viên lớp 12 (tập 1, Nxb Giáo Dục tr. 174) tuy có hướng dẫn tổng quát, song không đi vào chi tiết giảng thơ, thành ra thầy cô dạy 12 vẫn phải tự mình mày mò giải mã tác phẩm và lại loay hoay tìm cách hướng dẫn học sinh học tập. Và dường như xoay cách nào, vẫn không thấy an tâm với việc khám phá ý nghĩa thật của tác phẩm. Với thời lượng 2 tiết, việc đọc hiểu đoạn trích đã là vất vả, còn nói gì đến giảng giải, phân tích, cảm thụ một đoạn thơ hay. Trong bài viết nhỏ này, tôi chỉ xin chia sẻ đôi điều với thầy cô dạy lớp 12 về những gì mà Sách Giáo Viên không nói đến, và chia sẻ một cách tiếp cận khác đối với bài thơ này

1.Đất Nước là thơ Chính luận…

Chính luận –trữ tình là kiểu thơ đặc sắc của thơ ca chống Mỹ, là sự kết tinh giữa cảm xúc và suy tư. Thơ là dòng chảy tâm trạng của nhân vật trữ tình thông qua tứ thơ. Tư duy thơ là tư duy hình tượng. Chính luận thuộc kiểu tư duy logic, là suy tư, nhận thức, bàn luận. Đặc trưng của chính luận là nghệ thuật lập luận. Hai kiểu tư duy này trái ngược nhau, nhưng lại có thể kết hợp để tạo ra một kiểu thơ trí tuệ trong thơ ca Việt Nam đương đại, nâng thơ ca VN lên bước phát triển mới so với thơ ca kháng chiến chống Pháp (1946-1954). Đất Nước là một thành công đặc biệt của kiểu tư duy chính luận –trữ tình, trí tuệ mà dân dã, truyền thống mà hiện đại. Cái hay của thơ Chính luận-trữ tình là cái hay trí tuệ, không phải cái hay cảm tính, vì thế, nếu không hiểu được nội dung thơ, không hiểu sự khám phá trí tuệ của nhà thơ, thì không thể cảm nhận được giá trị thẩm mỹ của thơ.

Xin đọc đoạn thơ mở đầu

Khi ta lớn Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa..” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó..

Cấu trúc đoạn thơ là một lập luận quy nạp. Câu mở đầu và câu kết, mở ra và chốt lại chủ đề : Đất nước đã có từ lâu đời, từ “ngày xửa ngày xưa”. Những tứ thơ nằm ở giữa đoạn là chất liệu, nhằm chứng minh cho chủ đề, khẳng định lập luận của tác giả.

Điệp từ “có” khẳng định sự tồn tại của Đất Nước.
Tác giả không nói Đất Nước là gì, mà khám phá ra sự tồn tại của Đất Nước. Người đọc theo chỉ dẫn của tác giả, mà tự mình khám phá ra Đất Nước. “Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa..” mẹ thường hay kể”, tức là có trong cổ tích. Đọc truyện Họ Hồng Bàng, ta hiểu cội nguồn dân tộc từ Lạc Long Quân-Âu Cơ truyền lại 18 đời vua Hùng, hiểu những truyền thống cao đẹp của ĐN. ĐN là miếng trầu của bà, là búi tóc của mẹ, là cái tên của ta, là hạt gạo ta ăn. Do đâu tác giả có thể khẳng định điều ấy ? Bởi vì, chỉ có người VN mới có tục ăn trầu. Người VN “búi tó của hành làm anh thiên hạ” khác với người Hoa tết tóc đuôi sam... Người VN đặt tên con bằng những vật dụng mộc, cái kèo, cái cột, thằng tí thằng tèo, khác với người Hoa đặt tên chữ. Hạt gạo cũng là ĐN, bởi hạt gạo VN nhiều mồ hôi, nhiều tình nghĩa “Một nắng hai sương” khác hạt gạo Mỹ sản xuất bằng máy móc công nghiệp.

Vâng, ĐN là những cái cụ thể, thiết thân. ĐN không phải là cái xa với ở ngoài ta. Nguyễn Khoa Điềm nhắc đến miếng trầu của bà, bới tóc của mẹ, tình thương của cha mẹ là để nói đến mối quan hệ máu thịt , thiết thân của ta với ĐN, như ta với bà, với mnẹ, với mẹ cha.

Hiểu như thế, mới chỉ là hiểu trên mặt cấu trúc tường minh, còn một lớp nghĩa khác nằm ngoài cấu trúc. ĐN có những truyền thống cao đẹp ngàn đời. Truyền thống “trồng tre đánh giặc”, tức là truyền thống đánh giặc anh hùng khởi đi từ Gióng. Truyền thống thuỷ chung : “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Câu thơ này không thể hiểu bằng nghĩa tường minh, mà nghĩa nằm trong một liên văn bản. Ca dao có câu :”Tay bưng đĩa muối chén gừng/ gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Cha mẹ thương nhau bằng tình nghĩa thuỷ chung, câu thơ mượn tình ý ở vế ẩn “xin đừng quên nhau”để nói về một truyền thống cao đẹp của gia đình VN. Gia đình Phong kiến Trung Hoa thì “năm thê bảy thiếp”, phương Tây thì lứa đôi li dị như thay áo, chỉ có người VN mới sống thuỷ chung, vì cha mẹ cùng chia nhau “gừng cay muối mặn”, gian khổ ngọt bùi.

Người đọc vẫn còn băn khoăn ở những từ, tuy thoáng qua, nhưng không thể không giải mã. Chẳng hạn, ĐN đã có 4000 năm lịch sử, sao tác giả lại có thể viết :” Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”? Hai chữ “bắt đầu” và “bây giờ”tạo nên một ngữ nghĩa thật lạ lùng. Đất Nước bắt đầu với miếng trầu hay ĐN bắt đầu bây giờ”? Cả khi hiểu ĐN bắt đầu từ khi có miếng trầu (truyện trầu cau thời vua Hùng) cũng không ổn. Phải Giải Cấu Trúc câu để tìm đến liên văn bản. Người Việt có tục ăn trầu, “miếng trầu là đầu câu chuyện”. Chữ “bắt đầu” trong câu thơ có nguồn từ câu tục ngữ này. Cả câu thơ chỉ có nghĩa, miếng trầu bà ăn hôm nay, tuy đã có từ thời vua Hùng, cũng là đất nước.

Câu thơ sau đây còn lạ lùng hơn nữa về một kiểu ngôn ngữ thơ.

“Tóc mẹ thì bới sau đầu”

Đọc ở mặt văn bản thì câu này chỉ là một câu văn nói vụng về, lủng củng (thì, là, mà…). Vậy “chất thơ” thể hiện ở yếu tố nào ? Tôi nói đây là câu văn nói vụng về bởi câu văn có thể viết lại cho trong sáng hơn : “tóc mẹ bới sau đầu”. Ngay cả viết như thế, câu văn cũng không đem lại một thông tin nào mới mẻ. Bởi tóc ai mà không bới sau đầu, chẳng nhẽ lại bới tóc trước đầu (?!). Ấy vậy mà câu văn nói vụng về ấy lại là một câu thơ. Thật không dễ phát hiện ra chất thơ của phát ngôn này. Chất thơ được tạo ra ở chữ “thì”. Đó là một điều lạ lùng của ngôn ngữ. Từ “thì” được dùng để nhấn mạnh,(nghĩa tu từ, không phải nghĩa từ vựng) và nhấn mạnh vào búi tóc. Người đọc buộc phải suy nghĩ xem tại sao tác giả khẳng định búi tóc của mẹ cũng là Đất Nước. Đến Đây, buộc ta phải quan sát, so sánh. Người Việt búi tó củ hành, khác với người Hoa tết tóc đuôi sam. Phụ nữ phương Tây thì uốn tóc. Nếu có ba người phụ nữ khác nhau về quốc tịch : Hoa, Pháp, Việt, thì ta có thể nhận ra ngay người phụ nữ VN qua búi tóc. Nhận ra búi tóc cũng là là nhận ra ĐN. Tác giả bước thêm một bước nhận thức : búi tóc của mẹ cũng là Đất Nước.

Để hiểu Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, cần phải giảng giải cận kẽ nghệ thuật ngôn ngữ, kiểu tư duy thơ rất riêng của NKĐ như vậy. Nếu không, sẽ chỉ là “tán”, là “đoán mò” ngữ nghĩa, và không thể nhận ra chất thơ, và cái hay của kiểu thơ trí tuệ. Điều đặc sắc là NKĐ đã khám phá và khẳng định sự tồn tại của Đất Nước từ văn hoá, tục ngữ, ca dao, cổ tích, phong tục… Bởi bản sắc của một dân tộc nằm trong văn hoá, lịch sử, lối sống. Nhiều người nước ngoài không phân biệt được văn hoá Việt Nam với văn hoá Trung Quốc. Khẳng định sự tồn tại của đất nước qua sự tồn tại của một nền văn hoá lâu đời, có bản sắc riêng, là một khẳng định đầy tính thuyết phục. Và người đọc, nếu không có vốn văn hoá này, và không hiểu kiểu tư duy thơ Nguyễn Khoa Điềm thì không thễ cảm thụ đoạn thơ.

2. Đất nước là thơ trữ tình

Nhiều khi thầy cô quá thiên về khai thác những ý nghiã chính luận của đoạn thơ mà dễ dàng bỏ qua chất trữ tình trong thơ Nguyễn Khoa Điềm.

NKĐ đã triển khai một hệ thống ý tưởng để làm nổi bật tư tưởng Đất Nước là của nhân dân. Mở đầu tác giả khẳng định ĐN đã tồn tại lâu đời. ĐN là một thể thống nhất, ĐN do nhân dân hoá thân thành và ĐN là của nhân dân. Nhà thơ kêu gọi mỗi người phải có trách nhiệm “gắn bó và san sẻ” trách nhiệm với ĐN, kêu gọi mọi người “hoá thân “ để làm nên ĐN muôn đời

Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời

Đoạn thơ hoàn toàn là là một lời kêu gọi chính luận. Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ chính luận, là lời kêu gọi trực tiếp. Đoạn này được ra thi Tú Tài, hầu hết thí sinh sẽ phân tích thơ như làm một bài chính luận, có chăng chỉ khác một chút là cố gắng “tán” mấy từ “hoá thân cho dáng hình xứ sở”, và cũng chỉ tán chung chung mơ hồ, không thể giải mã được gì. Tất nhiên, nếu xét về tư tưởng, thầy cô vẫn khai thác được những ý tứ có chiều sâu. Chẳng hạn, tư tưởng “ĐN là máu xương của mình”. Đây là ý thức yêu nước sâu sắc. Chỉ đến thơ thời kỳ chống Mỹ mới đạt đến. Thơ thời kháng chiến chống Pháp tình cảm yêu nước lồng trong tình quê hương (chẳng hạn, bài thơ Đồng Chí-Chính Hữu). Văn học trung đại thể hiện tư tưởng yêu nước Thiên Mệnh (Sông Núi Nước Nam), yêu nước trung nghĩa (Hịch Tướng Sĩ), yêu nước nhân nghĩa (Bình Ngô Đại Cáo). Đến Nguyễn Đình Chiểu , yêu nước là yêu “tấc đất ngọn rau ơn chúa”. Phan Bội Châu thì hát bài ca Ái Quốc: ” Nay ta hát một thiên ái quốc/ Yêu gì hơn yêu nước nhà ta/ Trang nghiêm bốn mặt sơn hà/ Ông cha để lại cho ta lọ vàng…”(Ái quốc). Yêu nước là yêu núi sông gấm vóc do cha ông để lại…Nhưng nếu giảng như thế, đoạn thơ hoàn toàn thiên về tư tưởng chính luận, làm mất đi chất thơ của đoạn trích

Trong tình huống như vậy, cần phải khai thác chất trữ tình trong thơ NKĐ.

Trong cụm từ “em ơi em” thì nhân vật em là ai. Những từ “ta, anh, em, dân mình, đồng bào ta, con ta..” bộc lộ cảm xúc gì của tác giả ?

Khi ta lớn Đất Nước đã có rồi…
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn…
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ…
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng…
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Nhà thơ đã nhập thân vào ĐN, đã hoá thân để nói tiếng nói sâu thẳm trong lòng mỗi người, bộc lộ trực tiếp những tình cảm với ĐN, khiến cho câu thơ không cần giảng nghĩa mà vẫn có thể cảm được. Thực ra những tiếng nói như thế đã là tiếng nói của cả dân tộc từ khi chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc lập. Người tố cáo tội ác của thực dân Pháp:

Thế mà hơn tám mươi năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở trung, nam, bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết…

3.Sự hài hoà chính luận-trữ tình làm nên đặc sắc của Đất Nước.

Đoạn thơ sau đây có thể là tiêu biểu

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau 4.000 năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta

Chủ đề đoạn thơ là câu cuối cùng:” Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”. Chủ đề này được triển khai bằng một đoạn quy nạp. Tám câu đầu là những trường hợp cụ thể sự hoá thân của nhân dân thành Đất Nước. Bốn câu cuối là khái quát sự hoá thân của nhân dân trong không gian, trong thời gian lịch sử.

Nếu chỉ trình bày ý tưởng chính luận ấy của đoạn thơ thì sẽ không sao cảm nhận được tài thơ của ngòi bút NKĐ. Hãy nhìn vào cấu trúc của 8 câu thơ đầu. Tất cả các câu đều có cùng một cấu trúc ngữ pháp (tu từ cú pháp). Vế trước của mỗi câu là nhân vật, phía sau của câu là một di tích , một địa danh. Tác giả khám phá ra ĐN từ những di tích, địa danh, và khám phá ra sự hoá thân của nhân dân thành ĐN.

Tại sao tác giả lại đưa lên đầu đọan hình ảnh người phụ nữ?

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Từ sự tích Hòn Vọng Phu, người đọc khám phá ra ý nghĩa này, lịch sử 4000 năm của dân tộc là lịch sử chống ngoại xâm. Những người mẹ, người vợ đã dâng hiến con mình, chồng mình cho ĐN, hy sinh hạnh phúc, hy sinh tuổi thanh xuân. Nếu không có sự hy sinh âm thầm, lớn lao ấy của những người mẹ, người vợ, ĐN này đã không thể tồn tại. Ngay trong thời đại chúng ta, có người mẹ anh hùng hy sinh 7 người con. Mẹ đã đi từ bắc chí nam, theo dấu chân hành quân của đơn vị để tìm mộ con, nhưng đến đâu cũng chỉ tìm thấy mộ tập thể của đồng đội con. Những người vợ nhớ chồng đáng tôn kính biết bao.

Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình điều gì?

Học trò Việt Nam xưa nay vốn nghèo, lấy gì mà đóng góp ? Còn nhớ chuyện học trò nghèo Trần Minh khố chuối. Nghèo đến thế thì lấy gì mà góp cho ĐN? “Núi Bút non Nghiên” là một di tích, trở thành biểu tượng cho sự đóng góp to lớn của anh học trò nghèo. Một nhân vật lịch sử có thể làm rõ ý tưởng này. Nguyễn Trãi là con của Nguyễn Phi Khanh, vốn là người học trò nghèo. Thế nhưng, những gì Nguyễn Trãi “góp” cho ĐN này, khó có ai sánh bằng. Tư tưởng nhân nghĩa, Bình Ngô Đại Cáo, thơ Quốc Âm, Lam Sơn Thực Lục, Dư Địa Chí, Quân Trung Từ Mệnh Tập là những tác phẩm vô giá cho đời sau. Nguyễn Trãi trở thành danh nhân văn hoá thế giới. Trở thành niềm tự hào của dân tộc này.

Khai thác những ý tưởng như thế của hình ảnh thơ, sẽ chạm đến giải tầng tình cảm sâu thẳm trong lòng học sinh về nhân dân và đất nước mình. Để rồi sau đó, ở 4 câu cuối, tình cảm ấy sẽ cất lên thành niềm yêu mến, tự hào có sức ngân vang sử thi. Tình cảm yêu mến tự hào về đất nước của tác giả hoà trong bai ca, ca ngợi sự hoá thân của nhân dân thành ĐN.

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau 4.000 năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta

Trong phần khái quát này, NKĐ tiếp tục khám phá ĐN bằng những suy tư không dễ giải mã.
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha.

Tác giả nhìn thấy căn gốc Việt, bản lĩnh Việt, sức mạnh Việt là ở nông thôn, tận những “ruộng đồng gò bãi”, hiển lộ trong dáng hình, trong ao ước và trong lối sống ông cha. Đó là cái nhìn vừa có chất sử thi, vừa đậm màu sắc tâm linh (địa linh nhân kiệt). Dáng hình đó là gì, cha ông có ao ước gì, lối sống ông cha là lối sống thế nào ?

Để trả lời câu hỏi này, cần phải trở lại hệ thống hình ảnh ở trên, tìm ý nghĩa trong, những người vợ, Gióng, Hùng Vương, anh học trò nghèo, con voi, con rồng, con cóc con gà, ông Đốc, ông Trang, Bà Đen Bà Điểm, cả những con người không tên. Đó là dáng hình yêu nước anh hùng của Gióng, là ao ước hoà bình của những người vợ chờ chồng đi chiến trường, là khát vọng cống hiến cho đất nước của người trí thức nghèo, là lối sống giản dị nghĩa tình (con cóc con gà-những người lao động bình dân), lối sống lấy sự hoà mình, tự nguyện vì cộng đồng (Ông Đốc, ông Trang), khác rất xa với lối sống vị kỷ, cá nhân thực dụng chủ nghĩa của một bộ phận người Việt hôm nay. Nếu cảm nhận được như vậy, ta sẽ thấy yêu thêm đất nước mình, quý mến trân trọng hơn nhân dân mình.

Vì tác giả khai thác vốn văn hoá làm chất liệu thơ, người đọc cũng phải có vốn văn hoá dân tộc mới cảm hiểu được những suy tư của tác giả. Sức hấp dẫn của thơ trí tuệ là ở năng lực trí tuệ khám phá những ý tưởng thơ. Người xưa nói , “vô tri bất mộ”, không hiểu thì không yêu mến. Không biết đất Tổ Hùng Vương có 99 ngọn núi nằm như 99 con voi phục, thì sao hiểu được tầm trí tuệ cha ông thời mở nước, để đất nước này tồn tại mãi với muôn đời. Không biết ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm là ai, sao có thể hiểu tính cách con người phương Nam. Không hiểu Gióng thì không thể hiểu sức mạnh Việt Nam. Thế mới biết, giảng văn đòi hỏi thầy cô một trình độ hiểu biết sâu sắc văn hoá dân tộc mình, một tấm lòng yêu tha thiết nhân dân mình, và một lòng nhiệt thành cháy mãi khôn nguôi truyền lửa cho học sinh thân yêu của mình. Đất Nước là một đoạn trích hay và sâu sắc.

Tháng 6 năm 2013


Thứ Ba, 11 tháng 6, 2013

NHÂN CUỘC THI THƠ CỦA ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG, NGHĨ...

NHÂN CUỘC THI THƠ CỦA ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG, NGHĨ…
Bùi Công Thuấn



Nhà ngôn ngữ học và phê bình Lê Xuân mời tôi chia sẻ bài anh viết về 11 bài thơ của cuộc thi thơ Đồng Bằng Sông Cửu Long lần V-2012 (ĐBSCL) mới được công bố. Tôi đã gửi lên trang blog Yume của anh một comment, chỉ là để chia sẻ những suy nghĩ riêng tư, giữa cá nhân với cá nhân. Đó không phải là bài viết chính thức tôi đánh giá về cuộc thi và về các bài thơ. Tuy nhiên, comment của tôi lại “làm buồn lòng” một vài người bạn mà tôi quý mến, thành ra tôi phải viết tiếp những dòng này. Xin nói rõ điều này, tôi chỉ là kẻ ngoại cuộc, không viết để bày tỏ”chính kiến” về cuộc thi, vì thế Ban Tổ Chức, Ban Giám Khảo cuộc thi thơ ĐBSCL không nên bận tâm. Các nhà thơ dự thi cũng không phải “băn khoăn” điều gì. Tôi viết những ngẫm nghĩ của mình nhân có cuộc thi thơ, vậy thôi.

CUỘC THI NÀO CŨNG CÓ TIÊU CHÍ, MỤC ĐÍCH RÕ RÀNG

Thể lệ cuộc thi thơ ĐBSCL đã được công bố:
I. Đề tài:

- Vùng đất, con người ĐBSCL trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa - hiện đại hóa; phát triển và hội nhập. xây dựng thành phố và nông thôn mới hiện nay.

- Những điển hình học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
- Về các biển đảo của Việt Nam.

II. Thể loại:

- Thơ (không nhận trường ca và thơ đường luật)
- Tác phẩm dự thi chưa đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng; chưa xuất bản sách và phổ biến dưới mọi hình thức.

VỀ CUỘC THI THƠ

Tổ chức Hội Văn Nghệ của các địa phương là tổ chức chính trị-nghề nghiệp được tỉnh uỷ trực tiếp lãnh đạo. Hoạt động của Hội là thực hiện nhiệm vụ chính trị của Tỉnh uỷ. Đường lối hoạt động của Hội thực hiện theo nghị quyết 5 của Trung Ương Đảng (khoá VII) về xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, và Nghị quyết 23 của Bộ Chính Trị…
Vì thế cuộc thi thơ ĐBSCL là một trong những hoạt động thực hiện nhiệm vụ chính trị, có mục đích rõ ràng, đó là : Viết về ” Vùng đất, con người ĐBSCL trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa - hiện đại hóa; phát triển và hội nhập…, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Về các biển đảo của Việt Nam.” Đây là những nhiệm vụ chính trị quan trọng toàn Đảng, toàn dân đang nỗ lực thực hiện. Tổ chức cuộc thi là để phát động phong trào quần chúng làm văn nghệ, để khẳng định và ca ngợi những thành tựu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng, để khẳng định và học tập gương đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh trong tình hình một bộ phận cán bộ, quần chúng suy thoái về đạo đức mà Nghị Quyết TW 4 đã đề ra…Viết về biển đảo trong tình hình chính trị hiện nay, ai cũng hiểu đó là Trường Sa, Hoàng Sa. Người làm thơ phải nói tiếng cói của dân tộc, khẳng định chủ quyền biển đảo, ca ngợi và cổ vũ các chiến sĩ đang bảo vệ biển đảo tổ quốc, thể hiện lòng yêu nước... Nội dung chính trị, mục đích chính trị của cuộc thi là tiên quyết. Các tác giả có thơ dự thi không nên mơ hồ điều này. Xin đừng nghĩ rằng làm thơ chính trị sẽ không hay. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, những bài thơ chính trị của Tố Hữu đã trở thành tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí. Là những “bài ca” hung tráng của cả nước cùng một nhịp bước tiến quân (Bài ca mùa xuân năm 1961, bài ca xuân 1968, Bài ca xuân 1971, Một khúc ca xuân, …)Tiếng nói riêng của nhà thơ trở thành tiếng nói của nhân dân, của dân tộc. Thơ hay là do tài năng, không phải do đề tài.

Có lẽ vì thế mà trong thể lệ cuộc thi, tôi không thấy có tiêu chí nghệ thuật. Thế có nghĩa là cuộc thi chỉ đánh giá thơ dự thi theo tiêu chí nội dung, mà không quan tâm đến nghệ thuật. Việc gạt bỏ thể thơ Đường Luật là điều thật khó hiểu. Những bài thơ Tứ Tuyệt Đường Luật của chủ tịch Hồ Chí Minh làm trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954) là những bài thơ tuyệt hay (Nguyên Tiêu, Báo Tiệp, Không Đề, Lên Núi…) đóng góp những giá trị vượt trội cho thơ ca sau CM tháng Tám. Tại sao cuộc thi lại gạt bỏ thơ Đường luật?

Không có tiêu chí nghệ thuật, tôi e rằng sẽ có những bài thơ hay về nghệ thuật bị loại bỏ ngay ở vòng sơ khảo. Tất nhiên tôi tin rằng, BTC, BGK không đến nỗi chỉ chọn bài đạt tiêu chí nội dung.

Nhưng đọc 11 bài thơ vào chung kết, tôi thực sự hoài nghi.

Bài “Về đồng mùa nước nổi” sao có thể lọt vào chung kết? Trước hết, bài thơ không chuẩn về luật thơ Lục Bát. Gieo vần sai, làm tan nát nhạc thơ, dùng từ lủng củng, lời không diễn được ý. Những câu thơ vụng về khó chấp nhận.

Ta về vác cát oặn lòng
Hòa dân ngăn nước thở cùng mặt đê
Trăng tròn trượt xuống tiếp hơi
Gánh gồng gìn giữ màu trời quê hương.

Chữ “mặt đê”, không vần với chữ “tiếp hơi”. Làm thơ lục bát sai vần là điều cấm kỵ. Câu thơ này cực kỳ tối nghĩa:” Hòa dân ngăn nước thở cùng mặt đê”. Câu đầu là vác cát ngăn nước, câu cuối là “gánh gồng”, không hiểu “nhà thơ” “gánh gồng” cái gì, sao không ngăn nước lũ lại “giữ màu trời quê hương”, trong tiếng Việt, người dân chỉ gánh gồng dắt díu nhau đi…Nội dung bài thơ là những than thở “sầu”: “nát tan”, “Trăm ngàn nỗi đau”, đất trở sầu”, “lúa khóc”,” trôi giạt về đâu”. Tôi không thấy đâu là công nghiệp hoá, đâu là hội nhập toàn cầu hoá, như tiêu chí cuộc thi. Có nhiều chữ dùng rất thô như: “Trăng…thình lình trượt xuống, bất cần đò đưa,.. Tôi chưa bao giờ thấy ở bến đò miền ĐBSCL có hình ảnh này :” Áo hồng bay ngát bến xưa”. Nói thế để thấy tác giả rất lúng túng trong bút pháp. Miêu tả hiện thực hay thể hiện tâm trạng lãng mạn? suy tư triết lý hay bày tỏ tâm trạng trữ tình. Tất cả nháo nhào trong một bài thơ, khiến cho, ngôn từ không sao diễn được tình ý. Có lẽ không nên mất thì giờ của bạn đọc về một “bài thơ” chưa thành hình hài như thế. Có thể là tác giả muốn nói về hiện thực ĐBSCL chống lũ, nhưng lực bất tòng tâm. Đành vậy ! Bạn đọc nên trân trọng nỗ lực của tác giả khi tham gia cuộc thi!


Tôi cũng hoài nghi cả về nội dung một số bài vào chung kết, vì không đạt tiêu chí thể lệ cuộc thi. Bài Đồng con gái là nỗi buồn “bao đời” :” ruộng lom khom nón lá đội trên đầu/ sống từ đất/ chết trở về cùng đất/ hạt lúa trời bơi qua nỗi bể dâu…”.Bài Nhật ký cho ngày rỗng là tâm trạng buồn
Cho quê hương, nỗi buồn tha hương: bạn bè bỏ xứ đi tha phương, bóng mẹ nhoè, dáng cha buồn thân phận, giấc mơ không hình thù/ bọt bóng (chỉ ảo tưởng, tuyệt vọng)

con rô, con lóc đi đâu cho ta bỏ câu ngày nhàu soi tăm cá…
thằng bạn cùng quê bỏ xứ theo cha tha phương đổi vận
cô bạn chơi trò cô dâu chú rể lên thành phố từ đó không thấy về…
…ở đó có bóng mẹ ngồi chiều nhòe mong nhớ mỗi khi trời trở gió, mùa đuổi mùa…
có cái ghế dựa, cha ngồi uống ngụm trà thả buồn vui thân phận…

Bài “Xóm mình nghèo cất giấu điện vào đêm”, là tâm trạng buồn của đứa con phương xa, nhớ nhớ những khôn khó ở quê đêm không có điện, nhớ xóm quê, nhớ tuổi học trò và nhớ mẹ, nhưng không mẹ không còn

“…Bên dòng kênh quen im lìm phèn mặn
Bằng bộ mặt nhiều màu nổi váng những tâm tư…

Giờ đi lập nghiệp phương xa
Ước mơ lăn theo sóng vỗ
Câu vọng cổ lại phải cất vô tờ giấy cũ
Về quê
Mẹ không còn..

Tản mạn trưa là tâm trạng buồ của tác giả khi nhìn con kiến, con sâu, con bướm, con mèo, lũ tò vò… mà thương ông thương bà

thương bà khóc cả đời
chiến tranh màu lá rụng
không biết ông nằm đâu…

Bài Tôi đã từng đến biển không nói được điều gì, ngoài sự mơ hồ, chung chung. Tôi không biết bài này có nằm trong tiêu chí viết về biển đảo không? Sao lại diễn tả người dân đánh cá Việt Nam là “vơ vét thiên nhiên”? Làm sao sánh được với bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận viết cách nay đã mấy chục năm!
Biển là trời xanh trôi trên mặt đất
Những con thuyền như chiếc lá trôi trên lòng biển mẹ
Mang những cánh tay nhẹ nhàng vơ vét thiên nhiên
Bài Phía mùa cam bạc lá cũng là tâm trạng buồn của đời nghèo rỗng không. Chỉ có tiếng mẹ thở dài, tiếng cha dằn cơn ho trong đêm, người chị lỡ làng tuổi xuân vì nghèo. Chỉ có bàn tay chai sạn… và tâm tư day dứt
gió cuốc những đường thở nhọc nhằn trên nền đất đen nâu
sau lưng cha màu xanh đã ngã
là đồng nghĩa với màu trắng tay người gom về ngập rỗng
nỗi buồn đeo đĩa

Có lẽ không cần viết thêm về nội dung những bài thơ không đạt tiêu chí thể lệ cuộc thi. Điều đáng ngạc nhiên là những bài tôi đã dẫn lại lọt được vào chung khảo, vượt qua tiêu chí chính trị.

THƠ HAY Ở NỘI DUNG HAY Ở HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT?

Ở Việt Nam, nội dung chính trị của tác phẩm nghệ thuật đã là mặc định. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định :”… không thể nói nghệ thuật vị nghệ thuật mà cần nói rõ văn hoá phục vụ công, nông, binh” (Bàn về văn hoá và nghệ thuật, Nxb Văn Hoá-Nghệ thuật Hànội. 1963, tr 104-105)

Nghị quyết 23 của Bộ Chính Trị cũng xác lập mục tiêu của văn học nghệ thuật :” Tập trung mọi nguồn lực xây dựng nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,… phục vụ có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì mục tiêu ''dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”
Như vậy, về nội dung ta không phải bận tâm, vậy tiêu chí nào để phân biệt giá trị bài thơ? Hãy xem, Bộ đội cụ Hồ ai cũng gian khổ hy sinh, sáng ngời lý tưởng, giàu tình quê hương, lẫm liệt chí anh hùng. Bài thơ nào viết về họ, các nhà thơ cũng nói nội dung ấy. Vậy những bài như Đèo Cả của Hữu Loan, Đồng Chí của Chính Hữu, Lên Tây Bắc của Tố Hữu, Tây Tiến của Quang Dũng, bài nào là nổi trội và trở thành bất hủ? Câu trả lời mọi người có thể đồng ý là Tây Tiến, bài thơ nổi trội nhất. Do đâu? Bài Đồng Chí được viết bằng bút pháp hiện thực chất phác. Bài Đèo Cả cũng một bút pháp ấy, có chất hùng ca hơn một chút. Trái lại, Tây Tiến được viết bằng bút pháp hiện thực, kết hợp với cảm hứng lãng mạn, chất cổ điển và tinh thần bi tráng. Quang Dũng có sự sáng tạo đặc sắc trong dùng từ, trong khám phá những tứ thơ mới, và đặc biệt là tấm lòng của nhà thơ với đồng đội.
Những bài thơ dự thi đã được mặc định về nội dung, vậy sự phân biệt giá trị nằm ở tiêu chí nghệ thuật. Cuộc thi thơ ĐBSCL lần V 2012 không có tiêu chí nghệ thuật thì biết căn cứ vào điều gì làm chuẩn mực? chắc chắn là phải dựa vào trực giác cảm tính. Xưa nay thưởng thức nghệ thuật là thưởng thức cảm tính chủ quan, còn đánh giá giá trị nghệ thuật phải đựa trên thang giá trị trí tuệ, trên phân tích khoa học. Có thể nói, cái hay ở mỗi người là khác nhau, và như thế, không thể căn cứ vào cảm tính mà đánh đồng bài thơ Tây Tiến với bài thơ Con Cóc trong dân gian được (mặc dù có người là tiến sĩ, viết một bài dài, khen bài Con Cóc là độc đáo)
Thơ hay, trước hết phải là thơ có những khám phá mới về hiện thực, sáng tạo mới về tìm tòi những tứ thơ, làm mới ngôn ngữ, về tư duy nghệ thuật, về góc nhìn và cách cảm, cách thể hiện mới. Thơ hay còn đòi buộc một hồn thơ tính tế, tài hoa, giàu cảm xúc, một cá tính sáng tạo độc đáo, một thế giới nghệ thuật riêng (xin đọc Nguyễn Bính, Hoàng Cầm, Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư, Tố Hữu …)
11 bài thơ vào chung khảo, những bài nào đạt tiêu chí này? Tôi cho rằng không có bài nào, bởi những bài dự thi này đều rất cũ cả về tình, ý nội dung, và cũ cả về thi pháp. Những bài như Nhật Ký Rỗng, Tản Mạn Trưa, Xóm Mình Nghèo cất Giấu điện Vào đêm, Phía Mùa Cam Bạc Lá, tuy có mới hơn so với những bài khác, nhưng cũng đã cũ so với phong trào thơ trẻ những năm 2005-2010, và ngay tại ĐBSCL, cũ so với thơ Huỳnh Thuý Kiều trong hai tập Kiều Mây (2008) và Giấu anh Vào Cỏ Xanh (2010)

Xin đọc một bài của Huỳnh Thuý Kiều, để thấm sâu chất châu thổ ĐBSCL trong thơ
Mắc nợ đồng bằng

Cá trê nấu với dây tơ hồng
Ăn để về khóc đầm lưng áo mẹ
Gót chân son nợ một đời dâu bể
Giữa đồng bằng chợt thèm…
Trái giác nấu canh chua…
Sinh ra con đã nợ rồi
Cả tiếng dạ thưa
Cả nhịp xuồng chèo khuya xa người đi trễ tép
Mai sau tràm mật ngọt chỉ còn là kỷ vật
Bướm bay chiều tà. Ơi nguồn cội khẳng khiu!
Sợi chỉ vàng dệt kín mái lá bên hiên
Nồi canh rau tập tàng
Vị cua nêm hương ngọt
Lùa chén cơm mồ hôi rơi nước mắt
Rơm vụ đầu dậy những nấm nhỏ xinh.
Mùa nước lên
Đêm. Lúa thao thức cựa mình
Ánh trăng rớt dưới tàn cây cuối làng cổ thụ nhất
Trò chơi dân gian bặt tăm bóng dáng
Chú dế than buồn ngoẹo cổ gãi râu.
Muốn quên đồng bằng. Dễ đâu quên được?
Màu ký ức cứ xòe ra như bàn tay năm ngón
Đây bếp lửa thơm mùi tro bánh tét
Mắm sặc kho bông súng chấm trưa nồng
Nợ khói ụn dừa buổi sớm lạnh đông
Nợ dọc đời người đau đáu chốn cưu mang…

NGHĨ...

Làm thơ hay rất khó. Cả đời tôi không làm được câu thơ nào, dù rất yêu thơ. Những nhà thơ tài năng luôn được nhân dân yêu quý. Và tôi nghĩ, cuộc thi thơ không chỉ là hoạt động phong trào của Hội Văn Nghệ, mà là nơi tìm kiếm những tài năng, mà nhờ họ, đời sống tinh thần của ta thêm phong phú, nhờ họ, tiếng Việt trở nên đẹp và giàu có, nhờ họ ta khám ra cái đẹp ngay trong đời thường, ngay cả trong gian khổ hy sinh, và cũng nhờ họ mà đất nước này là đất nước của thi ca…
Tháng 6 năm 2013