VỚI VĂN NGHỆ ĐỒNG NAI
Bùi Công Thuấn
Năm 1988 tôi được kết nạp vào Hội VHNT Đồng Nai, ban Âm Nhạc. Trong lễ kết nạp, cố nhà văn Nguyễn Đức Thọ (NĐT) có phỏng vấn tôi và đưa tin. Tôi nhớ mãi nụ cười hiền lành và tác phong lanh lợi của anh. Sau này khi viết phê bình văn chương, tôi mới đọc văn NĐT. Hồi Ức Làng Che và Dấu Chân Tiên của anh thực sự thuyết phục tôi. Anh viết về những bi kịch dữ dội của con người Việt Nam trong những khúc quanh khốc liệt của lịch sử. Tôi nhìn thấy ở anh triển vọng một nhà văn viết truyện ngắn hay của văn chương VN. Rất tiếc anh lại ra đi quá sớm. Những tài năng thực sự chỉ lóe sáng như một ánh sao băng giữa trời.
Tôi ở xa, rất ít có dịp gặp gỡ các nhà văn Đồng Nai. Những năm 1980, thỉnh thoảng tôi có nhìn thấy nhà văn Lý Văn Sâm đi vào văn phòng Hội. Tôi là kẻ hậu bối, chỉ đứng xa mà ngưỡng phục. Ông không chỉ là nhà văn nổi tiếng, mà nhìn dáng ông, tôi có nhiều điều ngẫm ngợi. Một con người vóc dáng nhỏ thó, gầy guộc, thanh thoát vậy mà lại sống và viết trong lòng địch mấy chục năm, chịu bắt bớ giam cầm vì ngòi bút của mình. Ở ông toát ra một sức mạnh mà tôi không hiểu nổi. Sức mạnh của một con người, một nhà văn sống có lý tưởng. Hiểm nguy, gian khổ như vậy mà ông vẫn viết được, viết hay và viết rất sung sức. Ít có nhà văn Đồng Nai nào viết về đất nước con người Đồng Nai hay như ông. Hẳn những trang văn của ông sẽ còn là thách thức đối với những nhà văn trẻ Đồng Nai, và tôi nghĩ khó có nhà văn trẻ Đồng Nai nào vượt qua ông, bởi họ không thể có một lý tưởng, một đời sống chiến đấu cho lý tưởng như ông, và hơn thế, có một tấm lòng với Đồng Nai và một tài năng sáng tạo có nhiều nét độc đáo như ông.
Cho đến giờ, tôi vẫn còn nợ nhà văn Hoàng Văn Bổn một món nợ tinh thần, món nợ tự nguyện. Đó là tôi chưa thể viết được một công trình nghiên cứu về ông. Bởi ông không chỉ là nhà văn, mà còn là nhà văn hóa lớn của Đồng Nai. Những lần gặp ông ở văn phòng Hội, lúc nào tôi cũng thấy ông ưu tư. Ông bảo tôi muốn đọc tác phẩm nào của ông thì cứ ghé nhà. Trước một khối lượng tác phẩm đồ sộ của ông, tôi biết mình không đủ sức khám phá hết tài năng nhiều mặt của ông. Điều làm tôi kính phục ông là ông sống và viết cho một lý tưởng cao đẹp, và ông đã có nhiều đóng góp cho văn học nghệ thuật chung của cả nước, như một nhà văn lớn. Tôi gọi ông là nhà văn lớn bởi ông có nhiều bộ tiểu thuyết sử thi viết về Đồng Nai, hẳn nhiên ông đã đổ hết công sức và tâm huyết của ông cho những bộ sử thi ấy. Và hẳn nhiên, ông đã sống đắm mình trong thời đại bão táp Cách mạng và kháng chiến vĩ đại của dân tộc thì ông mới có thể phản ánh được thời đại lịch sử vẻ vang ấy. Những nhà văn như ông ở Đồng Nai chỉ có Huỳnh Văn Nghệ, Lý Văn Sâm. Nhà văn trẻ không ai có thể theo chân ông được. Và tôi biết, ông sẽ còn mãi ưu tư.
Tất nhiên là mỗi nhà văn có một không gian nghệ thuật riêng của mình, có ưu thế riêng về khả năng thể hiện, và có những nhiệm vụ riêng mà người cầm bút tự nguyện dấn thân. Gần đây Đàn Ống Tre Bên Kia Sông của Khôi Vũ được nhà xuất bản Đồng Nai chọn in tài trợ, là một dấu chỉ Khôi Vũ là nhà văn Đồng Nai có cốt cách riêng. Tôi có “duyên” với nhà văn Khôi Vũ từ bên ban Âm Nhạc. Anh giúp tôi in tuyển tập nhạc, nhân dịp tôi tổ chức một đêm nhạc kỷ niệm 30 năm viết ca khúc (tháng 11. 1998). Trong lời giới thệu tập sách, anh phát hiện ra trong các ca khúc của tôi có những nốt thăng, giáng bất thường, giống như nhưng thăng giáng trong đời thực của tôi. Điều ấy làm tôi rất thú vị, bởi phát hiện ra anh đọc nhạc của tôi rất sâu sắc. Hèn gì mà (anh kể với tôi), trong một năm người ta mời anh tham gia làm giám khảo tới mấy chục cuộc hội thi âm nhạc.
Có lần tôi hỏi anh, anh làm việc xã hội nhiều như vậy thì anh lấy đâu ra thời gian để viết văn, anh chỉ cười (chắc là bí mật nghề nghiệp). Thực sự là tôi thán phục sức làm việc và sức viết của anh. Anh cho xuất bản tác phẩm đều đều, và tác phẩm của anh sống lâu bền trong lòng bạn đọc. Ở Đồng Nai, tôi đánh giá cao nỗ lực khám phá sáng tạo của anh. Lời Nguyền Hai Trăm Năm của anh là một khám phá về kết cấu hai tuyến truyện song song khá độc đáo. Đến Vỡ Dần Trong Mắt, anh có một bước cách tân khác về lối viết. Anh có tài kể những chuyện đời thường, dung dị nhưng giàu ý nghĩa tư tưởng. Cách kể của anh bộc trực nhưng ý nhị khôn ngoan. Tôi học được ở anh nhiều bài học đối với người cầm bút. Lần anh giúp tôi in cuốn Chút Tình Tri Âm, anh bảo, tôi chưa in cuốn nào vất vả như in cuốn này, tranh cãi nhiều lần với nhà xuất bản để bảo vệ bài viết của tôi. Sách được in đẹp, đầy đặn , đặt được một cột mốc trong đời viết phê bình văn chương của tôi. Cả những khi ngòi bút của tôi mất lửa, anh cũng giúp tôi giữ gìn nhiệt tình với văn chương.
Thực sự thì khi viết phê bình văn chương, tôi bị mất lửa nhiều lần. Có lẽ tại tôi sinh bất phùng thời, không có được một không gian phê bình văn chương đúng nghĩa, tức là phê bình để khám phá tài năng và giá trị văn chương. Và vì thế bài viết của tôi dễ đụng chạm. Tôi viết phê bình văn chương chỉ vì một chút tình tri âm, không vì bất cứ điều gì. Thế nhưng người cầm bút viết văn làm thơ hôm nay lại vì rất nhiều thứ ngoài văn chương. Thật khó tìm được một nhà thơ nhà văn chỉ viết vì cái đẹp nghệ thuật, chỉ viết để làm đẹp cuộc đời, làm giàu đẹp đời sồng tinh thần của nhân dân và làm giàu có vốn văn hóa của dân tộc. Lúc sinh thời, nhà thơ Hải Ba đọc bài tôi viết về thơ ông, ông đã phủ định thẳng thừng những nhận xét của tôi. Tôi hiểu ông ái ngại về những nhận xét ấy, vì nó dễ làm tổn thương con người đảng viên của ông, dù rằng bài viết của tôi không nói gì đến Hải Ba, con người xã hội.
Mãi sau này tôi mới ngộ ra một điều, trong thực tế không có chỗ cho nhà phê bình độc lập (tôi tạm dùng từ này để chỉ phê bình khám phá các tài năng và giá trị văn chương). Ở các Hội văn nghệ địa phương, chức năng của Hội là làm văn nghệ phục vụ chính trị. Hội có chức năng phát triển văn nghệ quần chúng. Nghị quyết 23 của Bộ Chính Trị đã đề ra quan điểm chỉ đạo và nhiệm vụ cụ thể:” Văn hóa, văn nghệ là một bộ phận khăng khít của toàn bộ sự nghiệp cách mạng, có sứ mệnh phục vụ các nhiệm vụ của cách mạng trong từng thời kỳ và gắn bó sâu sắc với đời sống nhân dân.- Phát triển sâu rộng văn nghệ quần chúng, đồng thời tập trung xây dựng phát triển văn học, nghệ thuật chuyên nghiệp. “Quy định số 284-QĐ/TW ngày 5-2-2010 của Ban Bí thư đã khẳng định: “Công tác cán bộ lĩnh vực văn hoá, văn học, nghệ thuật là công tác cán bộ của Đảng. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ lĩnh vực văn hoá, văn học, nghệ thuật…” Các quan điểm ấy đã xác lập tiêu chí chính trị là tiêu chí tiên quyết của văn nghệ. Vì thế Hội văn nghệ hay tạp chí văn nghệ của Hội trước hết, và tiên quyết phải phục vụ các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Vấn đề chất lượng nghệ thuật không phải là quyết định. Cũng vì thế vấn đề phê bình văn nghệ , trước hết phải trên tiêu chí chính trị, lấy việc phục vụ các nhiệm vụ cách mạng là thang giá trị. Thật cũng dễ hiểu Hội kết nạp tất cả những ai có khả năng cầm bút phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng, mà không bận tâm nhiều đến tài năng sáng tạo. Tôi đã đọc văn nghệ Đồng Nai với tinh thần ấy.(Tôi cũng đọc VNĐN với tiêu chí khác, nhưng ở một diễn đàn khác, tiêu chí khám phá những cá tính sáng tạo và phong cách nghệ thuật)
Tôi đã đọc văn của Anh Hoàng, Trần Thúc Hà, Tấn Hoài, Lê Đăng Kháng, Phạm Thanh Quang, Đào Sỹ Quang, Nguyễn Một, Dương Đức Khánh, Trần Thu Hằng, Hoàng Ngọc Điệp, Trâm Oanh, Hạnh Vân… Tôi đã đọc thơ Cao Xuân sơn, Trương Nam Hương, Hải Ba (trước kia), Lê Thanh Xuân, Đàm Chu Văn, Đỗ Minh Dương, Xuân Bảo, Hồng Phương, Đào Trọng Thử, Nguyễn Hoài Nhơn, Ngọc Thùy Giang, Trần Ngọc Tuấn, Nguyễn Đức Phước, Tiêu Thanh Giang, Khương Hà Bùi, Nguyễn Thị Khánh…(Có tác phẩm tôi đã viết thành bài đăng báo, có tác phẩm tôi lưu giữ trong kho tư liệu, để dành viết). Tôi thấy rằng đội ngũ nhà thơ nhà văn Đồng Nai sung sức, say mê văn chương, thực hiện tốt trách nhiệm nhà văn - chiến sĩ. Tác phẩm phục vụ tốt cho nhiệm vụ cách mạng của Đồng Nai (xin đọc tác phẩm của các trại sáng tác về học tập gương đạo đức Hồ Chí Minh, đề tài Công nghiệp, đề tài Tam Nông, đề tài nhà giáo, nhà trường…). Cá nhân mỗi người cầm bút đều có những nỗ lực âm thầm vượt lên chính mình. Những vấp váp lúc này lúc khác là trong quá trình vượt lên để trưởng thành, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng giai đoạn. Không có những sai phạm nặng nề như Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất của Nguyễn Khải hay Nhật Ký Nguyễn Đăng Mạnh…Có nhà văn Đồng Nai đã vươn tầm vóc đến với bạn đọc cả nước, tác phẩm đạt giải của Hội Nhà Văn, đó là tín hiệu đáng mừng của Văn Nghệ Đồng Nai.
Là người viết phê bình văn chương, tôi quan tâm đến tác phẩm và giá trị tác phẩm (tôi không dùng chữ chất lượng). Bởi khi xét giá trị tác phẩm, thì tùy tiêu chí đánh giá mà tác phẩm có giá trị hay không. Khi đã lấy tiêu chí phục vụ các nhiệm vụ của cách mạng làm chuẩn, kết hợp với nhiệm vụ phát triển sâu rộng văn nghệ quần chúng làm nhiệm vụ trọng tâm thì tiêu chí về chất lượng nghệ thuật là chuẩn mực hạng hai. Và ngay cả lấy chuẩn mực nghệ thuật, thì thế nào là hay, thế nào là không hay cũng không dễ phân định rạch ròi. Thế nên nhiêu khi tôi cũng băn khoăn về một vài việc liên quan đến tiêu chí. Chẳng hạn giải Trịnh Hoài Đức đặt ra tiêu chí tác phẩm phải có ít nhất 50 phần trăm nội dung viết về đất nước con người Đồng Nai. Điều này đúng với yêu cầu chính trị, nhưng thật khó cho nhà văn. Bởi văn chương cần phải vượt qua cái ao làng, vươn tới cộng đồng cả nước và cộng đồng thế giới. Cuốn Chút Tình Tri Âm của tôi được giải khuyến khích vì tiêu chí này, mặc dù tôi mất 4 năm mới hoàn thành, trong khi có bài hát viết về Đồng Nai lại đạt giải A, giải B. Thú thực nếu có cảm hứng, một nhạc sĩ có thể chỉ mất 30 phút là viết xong một ca khúc, không cần mất 4 năm như tôi. (Hôm dự trại sáng tác Đà Lạt 7.2012, trong một tuần tôi viết được 4 ca khúc. Các nhạc sĩ trong ban âm nhạc nghe tôi trình bày đều không chê -tôi không dám nói rằng các nhạc sĩ đều khen hay, bởi ca khúc còn tùy vào ca sĩ, hòa âm phối khí và kỹ thuật thu âm). Vâng, còn nhiều điều băn khoăn, nhưng điều quan trọng đối với một người cầm bút là anh có viết được không, tác phẩm của anh có được cộng đồng công nhận hay không.
Tất nhiên là chính quyền và nhân dân Đồng Nai mong mỏi các văn nghệ sĩ Đồng Nai viết được những tác phẩm lớn. Đó là món nợ mà chưa nhà văn nhà thơ Đồng Nai nào trả được (ngoại trừ Lý Văn Sâm, Hoàng Văn Bổn). Ngày xưa (1925-1940), M.Sôlôkhôp chỉ viết về sông Đông cũng trở thành nhà văn thế giới (tác phẩm Sông Đông Êm Đềm). Sông Đồng Nai vẫn đang nhẫn nại chờ các nhà văn nhà thơ Đồng Nai viết về mình, như thể Sông Đồng Nai Êm Đềm (tôi giả định vậy).
Tháng 1.2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét