SÓNG, SÓNG GIÓ VÀ THÔNG ĐIỆP NGHỆ THUẬT
(Đọc bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, chương trình Ngữ Văn 12)
1.Câu chuyện tình yêu
Có lẽ trong chương trình Văn 12, không có tác phẩm nào được thầy cô giảng dạy bằng cảm hứng dào dạt như bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh. Bởi chuyện tình yêu là chuyện muôn đời, lại là chuyện rất riêng, “sống để bụng, chết mang theo”, mỗi người đều có những trải nghiệm mà người khác không có, thành ra, khi có dịp, nhất là dịp được công khai mở cửa trái tim, thầy cô nào cũng thao thao bất truyệt. Còn học trò thì há miệng nghe, như đàn chim non há mỏ chờ, khao khát. Và rồi giờ dạy trở thành giờ nói chuyện tình yêu. Thay vì phân tích khám phá, đánh giá tác phẩm, người giảng dạy lại chỉ dựa vào lời thơ để “tán”. Ngôn ngữ tán đạt đến sự tuyệt vời hơn cả sự tuyệt vời của bài thơ.
Cũng nên thông cảm, bởi trong chương trình Ngữ Văn 10 đến 12 đâu có tác phẩm nào đề cập trực diện đến tình yêu lứa đôi, điều mà trái tim lứa tuổi 18, đôi mươi đang rực lửa. Tình yêu của Thuý Kiều với Kim Trọng (Đoạn Trường Tân Thanh-Nguyễn Du) đã là “cổ” lắm rồi. Tình yêu của Chí Phèo và Thị Nở ư (Chí Phèo-Nam Cao)! chỉ tồn tại năm ngày và kết thúc bằng cái chết đẫm máu của Chí. Tương Tư của Nguyễn Bính chăng! thời đại công nghệ thông tin, chẳng còn bạn trẻ nào biết tương tư nữa. Nhớ nhau là bấm Smart phone, cần thì phóng lên xe, bay đến gặp, rồi quấn lấy nhau và… “yêu” thoải mái. Cặp đôi Tràng và người “vợ nhặt”(Vợ Nhặt-Kim Lân) có yêu nhau không hay bỗng dưng Tràng bị “đèo bòng”“của nợ đời” ? Mị và A Phủ (Vợ Chồng A Phủ- Tô Hoài) cùng nhau chạy trong rừng mấy tháng trời để trốn Pátra, không thấy nhà văn miêu tả họ yêu nhau thế nào. Chuyện tình của người đàn ông và người đàn bà chài (Chiếc Thuyền Ngoài Xa-Nguyễn Minh Châu) có tình có nghĩa và cuối cùng là…bạo hành, “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” không biết họ yêu nhau như thế nào?...
Thế nên Sóng là bài thơ đáp ứng đúng cái yêu cầu tâm lý của cả thầy lẫn trò, giờ học vô cùng say sưa, mê đắm, chia sẻ…
2.Sóng và “nghệ thuật “ diễn giải ngoài văn bản
Cho đến tận hôm nay, những lời có cánh này của Hoài Thanh viết về Thơ Mới (1930-1945) vẫn có ma lực ám ảnh nhiều người bình thơ :” “ Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy cận. Cả trời thực, trời mộng vẫn neo neo theo hồn ta.”(Một Thời Đại Trong Thi Ca).
Đó là cách bình thơ bằng trực giác cảm tính, không dựa trên những phương pháp khoa học để phân tích giá trị thơ. Nếu một người có tri thức rộng, trí tuệ sắc xảo, đọc nhiều, am hiểu thi pháp của nhiều nền thơ Đông-Tây , kim cổ ; lại có tấm lòng tri kỷ với văn chương, thì trực giác cảm tính của người ấy giúp cho họ nhận ra giá trị thơ ca rất nhanh, và có giá trị khả tín. Hoài Thanh là một nhà phê bình như thế. Bạn đọc bình thường cũng có thể cảm nhận thơ ca theo cách này. Chỉ cần đọc thoáng một lần, ta đã có thể nhận ra ngay một bài thơ hay, hay dở, mà chưa cần phải phân tích. Cảm thụ nghệ thuật là cảm thụ dựa trên cảm tính chủ quan.
Nhưng trong nhà trường, phân tích, giảng, bình thơ, không thể dựa vào cảm tính chủ quan, rồi áp đặt lên học sinh. Bởi tinh thần của thời đại hôm nay là tinh thần khoa học, chỉ những gì dựa trên phân tích khoa học mới có thể thuyết phục được người đọc. Phê bình văn học trở thành một khoa học, không còn là cảm thụ trong những lúc trà dư tửu hậu, những khi tom-chát rồi mặc sức tang bốc nhau bằng những lời châu ngọc như các cụ ngày xưa. Phê bình văn học phải dựa trên khoa học ngôn ngữ (những quy luật về dùng từ, về cú pháp, về ngữ pháp văn bản..), phải sử dụng những phương pháp có cơ sở khoa học (phương pháp phê bình Marxist, Phân Tâm Học, Phê Bình Mới, Cấu Trúc Luận, Giải Cấu Trúc, Thi Pháp Học, Phong Cách Học, các lý thuyết tiếp nhận văn học…)
Vậy mà, nhiều người phân tích bài thơ Sóng vẫn cứ ru học sinh trong những lời có cánh kiểu Hoài Thanh. Người ta cắt nhỏ bài thơ thành từng câu, rồi diễn giải ra ngoài văn bản tác phẩm (tán). Điều này có nguyên nhân của nó. Có thể là do quán tính bắt chước Hoài Thanh, cũng có thể là bất lực trước bức tường chữ nghĩa không thể vượt qua, khi tác phẩm văn chương được mã hoá bằng một kiểu tư duy nghệ thuật khác lạ (những người quen đọc tác phẩm Hiện Thực, sẽ bất lực khi tiếp cận với tác phẩm Siêu Thực). Vì thế, người phân tích thơ thoát ly văn bản, không bám vào cấu trúc tác phẩm để giải mã ý nghĩa, ngược lại, tự mình gán cho câu thơ những ý nghĩa mà cấu trúc văn bản không có. Không khám phá được cấu trúc văn bản cũng đồng nghĩa với sự bất lực trước toà lâu đài nghệ thuật, người phân tích thơ đành đứng bên ngoài mà tán tụng.
Xin đọc lời bình đoạn thơ sau :
- Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Sách Giáo Viên của Bộ Giáo Dục đã hướng dẫn thầy cô dạy học sinh như sau :”Soi vào lòng mình, đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi về khởi nguồn của tình yêu của mình, nhân vật trữ tình ở đây đã nói lên được một quy luật sâu xa của tình yêu. Cái điều mà Xuân Diệu trước kia đã nói như tổng kết một chân lý ‘Làm sao cắt nghĩa được tình yêu’ thì nay Xuân Quỳnh lại phát hiện ra, nhưng bằng trực cảm, bằng tất cả lòng mình, như lời thú nhận thành thực, hồn nhiên mà ý nhị sâu sắc” (1)
Tác giả Nguyễn Đức Hùng (1) 10 năm sau Sách Giáo Viên, cũng viết như vậy :”Tình yêu phải chăng là sự hướng về, nhưng sự hướng về lại không biết đâu là nguyên nhân, đâu là cội nguồn? Tình yêu ở chỗ nào, những rung động do dâu mà có? Hình như con người vẫn và mãi mãi ‘bé thơ’, ‘ngơ ngác’ trước tình yêu? Bởi nó như là hiện thân của quy luật thiên nhiêu sâu xa và bí hiểm:
Từ nơi nào sóng lên
. . . . . . . . . . . . . . . .
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Đây cũng chính là lời thú nhận vừa hồn nhiên vừa trăn trở nhưng cũng ý nhị, sâu lắng :”Em cũng không biết nữa”. Xuân Diệu :”Ông hoàng thơ tình” cũng đã từng hồn nhiên thú nhận:”Làm sao cắt nghĩa được tình yêu…” (tr.174)
Cả hai lời giảng trên chỉ là diễn thành văn xuôi nghĩa tường minh của câu thơ, rồi tán về “quy luật sâu xa của tình yêu”, “ Xuân Quỳnh lại phát hiện ra, nhưng bằng trực cảm, bằng tất cả lòng mình…”. Lời “tán” của Nguyễn Đức Hùng thực sự thô thiển! “Tình yêu ở chỗ nào, những rung động do dâu mà có? Hình như con người vẫn và mãi mãi ‘bé thơ’, ‘ngơ ngác’ trước tình yêu? Bởi nó như là hiện thân của quy luật thiên nhiêu sâu xa và bí hiểm..””Tán” như thế này chính là giết chết lòng yêu thơ, yêu nghệ thuật trong lòng học sinh (ấy là chưa nói việc “đạo” ý tưởng cùa Sách Giáo Viên), và thật ái ngại khi nhà trường dạy cho người trẻ cách nghĩ, cách nói, cách viết sáo rỗng, giả dối, qua những giờ giảng văn diễn giải ngoài văn bản.
Thực ra không cần mất thì giờ để diễn xuôi nghĩa tường minh của khổ thơ, bởi học sinh 12 dư khả năng để đọc hiểu ý nghĩa câu nói bộc trực này “ - Sóng bắt đầu từ gió/ Gió bắt đầu từ đâu?/ Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Trong thực tế, các cô gái cũng dư trình độ để trả lời vấn đề “Gió bắt đầu từ đâu”. Đoạn thơ này là đoạn bản lề, để chuyển ý từ phần I sang phần II trong cấu trúc của bài thơ. Nếu cần giải mã ngôn ngữ thơ, thì cần làm rõ tính trí tuệ và nữ tính của thơ Xuân Quỳnh (đây mới thực sự là giá trị thẩm mỹ của khổ thơ). Và muốn nói thêm, thì nên đặt vấn đề, tại sao khi nói đến tình yêu, Xuân Quỳnh lại tra hỏi về “sóng-gió” ? Đó là một thông điệp. Có thể nói với người trẻ về thông điệp này: bước vào tình yêu là bước vào sóng gió. Nếu thuyền tình không chắc, người cầm lái con thuyền không vững tay, thì con thuyền ấy sẽ đắm chìm. Bao nhiêu người trẻ đã trầm luân trong đau khổ, bất hạnh của tình yêu, là vì không vượt qua được sóng-gió…
3. Cấu trúc Sóng/Em
Nhìn tổng thể, bài thơ được cấu tứ thành ba đoạn. Mỗi đoạn tác giả khám phá hình tượng sóng trước, sau đó dùng sóng để đối sánh với tình yêu của nhân vật em, nâng tình yêu ấy lên. Xin đọc đoạn mở đầu.
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sóng không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Nếu giảng từng khổ thơ, theo thứ tự, từ trên xuống, tức là phá vỡ cấu trúc đoạn thơ, người giảng thơ sẽ thất bại. Góc nhìn của nhân vật Em nằm ở khổ thứ ba. Em đang đứng trước bể nhìn sóng và suy nghĩ (cần chú ý điệp từ Em nghĩ, bộc lộ chất suy tư, kiều thơ tư tưởng của bài thơ). Khổ I và khổ II là nhận thức của Em khi nhìn sóng biển. Em không miêu tả sóng, mà nghĩ về biển rồi nhận ra những đặc tính trái ngược của sóng. Hình tượng Sóng ở phần mở đầu là sóng hiện thực, sóng biển, đối tượng suy tư khám phá của nhân vật em, và qua đó Em tỏ lộ tình yêu của mình. Sóng có những đặc tính trái ngược (Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ), nhưng cũng có những đặc tính vĩnh cửu (Ôi con sóng ngày xưa/ Và ngày sau vẫn thế).
Tình yêu cũng thế, cũng có những đặc tính trái ngược và vĩnh cửu như sóng, nhưng tình yêu còn là sự sống, sức sống của người trẻ (Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ). Xuân Quỳnh đã rất bạo khi dùng hình ảnh “bồi hồi trong ngực trẻ” để nói về một thuộc tính rất Người của tình yêu. Chỉ người trẻ mới yêu, mới cần yêu. Trái tim trẻ con và người già không có nhu cầu yêu. Ngực của một người cho biết thể lực và sức sống của người ấy. Một người nằm bất động trên giường, nếu ngực anh ta còn phập phồng, ta biết người ấy còn sống. Kim Lân miêu tả sự thảm thương của người “vợ nhặt” khi về nhà Tràng bằng hình ảnh, “Thị đảo mắt nhìn quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài…”. Tố Hữu diễn tả sức sống mãnh liệt của dân tộc trong Cách Mạng tháng Tám 1945 ,”Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió mạnh/ Thổi bùng lên. Tim bỗng hoá mặt trời”(Huế Tháng Tám ). Cũng chẳng phải vô tình, Chí Phèo đang yêu (được 5 ngày), bị bà cô Thị Nở ngăn cản, Chí xách dao đi “đến cái nhà con đĩ Nở kia. Đến để đâm chết cả nhà nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Mất tình yêu của Thị Nở, Chí mất tất cả.
Nói tất cả những điều ấy, Em gián tiếp tỏ lộ tình yêu của mình với anh trong tâm tưởng. Hình tượng sóng giúp cho sự bộc lộ tình yêu được kín đáo và sâu sắc. Trong bố cục khổ thơ, Xuân quỳnh đã dùng kỹ thuật của điện ảnh hiện đại. Màn hình hiện ngay lên, đột ngột, bất ngờ, một đối tượng : “ dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ”. Câu thơ chỉ có Tính Từ, không có Danh Từ, nên người đọc không hiểu Xuân Quỳnh đang nói về điều gì. Ông kính camera lùi lại dần dần, khổ II, rồi khổ III, người đọc mới nhận ra đối tượng ấy là biển, sóng biển, rồi nhận ra một nhân vật nữ (Em) đang đứng nhìn biển. Em đang suy tư về biển, về anh/ em, về tình yêu. Em lặng im, độc thọai, đối thoại trong tâm tưởng với anh. Bài thơ trở thành dòng suy tư (không phải dòng tâm trạng), thơ trữ tình trở thành thơ trí tuệ. Ở vào thời điểm Xuân Quỳnh làm bài thơ này (1967), thì kỹ thuật này gây được ấn tượng mạnh về sự mới lạ.
4. Bí mật của ngôn ngữ
Hai khổ thơ cuối chứa đựng một bí mật của cấu trúc ngôn ngữ mà ít người do vô tình, không nhận ra, vì thế đành phải diễn giải ngoài văn bản (tán)
Tôi xin trích một đoạn giảng bình trong một tài liệu ôn thi “đáng tin cậy” do tập thể nhiều GS-TS, Ths. viết: (3)
“Xuân Quỳnh không miêu tả các cung bậc, sắc thái yêu mà đi tri nhận tình yêu ở khía cạnh dâng hiến và khao khát hoà nhập, dẫu biết sự hoà nhập kia vẫn chỉ luôn là vọng tưởng :
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Sự mong manh của kiếp người cũng là sự mong manh của kiếp tình. Con người đã không trường cửu thì làm gì có tình yêu trường cửu? Tuổi thanh xuân rồi sẽ chóng qua. Năm tháng vẫn lặng lẽ đi qua cuộc đời mà cuộc đời đâu thể níu giữ. Cảm giác về sự hữu hạn càng thôi thúc thêm cường độ yêu. Và càng yêu nhau say đắm, người đang yêu sẽ càng cảm thấy bất an trước sự nỗi chia lìa. Hình ảnh mây, biển, trời lại gợi cảnh trăng và nước trong thơ Hàn Mặc Tử: “có chở trăng về kịp tối nay” ? nhưng cả hai vẫn cũng vẫn cứ gợi cảm thức chia lìa : Như biển kia dẫu rộng/ Mây vẫn bay về xa” (tr.178-179)
Đoạn văn phân tích được viết bằng một kỹ thuật khá điêu luyện, lướt từ ý này sang ý khác, có vẻ uyên bác, có vẻ trải đời. Người viết xoay nhiều góc độ để quán chiếu đoạn thơ, rồi tiên đoán, dự cảm những khả năng, những suy nghiệm từng trải trong tình yêu. Nhưng cũng không sao che dấu được sự bất lực trướclâu đài ngôn ngữ thơ, không sao thâm nhập được vào cấu trúc ngôn ngữ của khổ thơ, nên đành đoán mò, và diễn giải lấy được. Làm gì có “Sự mong manh của kiếp người” trong khổ thơ này, làm gì có “thôi thúc thêm cường độ yêu.” Khổ thơ không có chữ nào nói đến “tuổi thanh xuân rồi sẽ qua”, “Và càng yêu nhau say đắm, người đang yêu sẽ càng cảm thấy bất an trước sự nỗi chia lìa” như trong Vội Vàng của Xuân Diệu. Sao lại cố ép Xuân Quỳnh giống Hàn Mặc Tử?! Nếu học sinh cần nắm “kiến thức cơ bản “ của khổ thơ này, thì qua đọan phân tích trên, học sinh sẽ nắm điều gì!
Đoạn kết gồm hai khổ thơ, là đoạn suy tư giàu chất trí tuệ về những quy luật của cuộc đời.
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Chúng ta chú ý đến cấu trúc câu có những từ nối “Tuy, dẫu” và những phó từ “vẫn”. Khổ thơ gồm những câu ghép có cặp từ nối tương phản : “Tuy… nhưng; dẫu.. thì…” Xuân Quỳnh viết vế câu phía trước với nghĩa tường minh, và người đọc phải hiểu ẩn ý phía sau, có nghĩa tương phản.
Cuộc đời tuy dài thế (nhưng đời ta thì ngắn ngủi, “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy”- giới hạn về thời gian). Biển dẫu rộng (thì vẫn có bến bờ. Kha Luân Bố lênh đênh mãi trên biển, rồi cũng đến bờ chây Mỹ- tức là giới hạn về không gian). Thời gian đi qua, mây vẫn bay, đó là hai hiện tượng tự nhiên được dùng để nêu một chân lý. Từ “vẫn” được lặp lại, khẳng định tính quy luật của vấn đề. Quy luận đó là : Con người bị giới hạn trong thời gian và không gian, đó là một tất yếu, tất yếu như sự chuyển dịch của thời gian, sự biến đổi của mây. Xuân Quỳnh suy tư về những quy luật của đời sống hiện tại, tiếp cận với tư tưởng triết học. Nắm được quy luật ấy, Xuân quỳnh muốn vượt qua giới hạn, để vươn tới vĩnh cửu, thể hiện khát vọng về một tình yêu lớn, được yêu mãi ngàn năm. Sóng trở thành hình ảnh tượng trưng cho khát vọng của Xuân Quỳnh. Ta nói sóng trở thành biểu tượng cho khát vọng của Xuân Quỳnh, bởi những điều XQ mong muốn không thể thành hiện thực trong cỏi đời này.
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Đễ ngàn năm còn vỗ
5. Sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Xuân Quỳnh
Sách Giáo Viên của Bộ Giáo Dục kết luận thế này :”Mặc dù có những câu thơ còn nhẹ, chưa nhiều câu thật cô đọng, nhưng Sóng là bài thơ có cái hay ở toàn bài của tình cảm chân thành tha thiết và tự nhiên, hồn hậu, có chỗ đạt đến sâu sắc”(tr.168). Thầy cô dạy lớp 12 sẽ triển khai đánh giá này như thế nào?
Tôi nghĩ, cần phải khám phá cho được sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Xuân Quỳnh, bởi chính điều ấy mới làm nên giá trị bài thơ và cốt cách thơ Xuân Quỳnh, mới làm say lòng bao thế hệ độc giả, và bài thơ vẫn đứng được dù ngày hôm nay bạn trẻ đã yêu rất khác.
Trước XQ, nhiều nhà thơ đã viết về tình yêu. Hồ Xuân Hương dùng trầu, cau làm chất liệu (Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi-Mời Trầu). Tản Đà dùng hình ảnh con thuyền của ca dao:”Thuyền tình một chiếc con con/ Khoan khoan tay lái, ai còn đợi ai?...(4) Nguyễn Bính cũng khai thác giọng điệu và chất liệu thơ ca dân gian :”Nhà em có một giàn giầu/ Nhà anh có một hàng cau liên phòng” (Tương tư). Ca Dao viết :”Thuyền ơi có nhớ bến chăng / Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”; “Khăn thương nhớ ai/ khăn vắt lên vai…” XQ khai thác hình tượng Sóng (biển ) để khám phá, thể hiện tình yêu. Cái nhìn về tình yêu của XQ vượt thời gian, không gian (ôi con sóng ngày xưa/ và ngày sau vẫn thế..Trong biển lớn tình yêu/ Để ngàn năm còn vỗ). Khám phá hình tượng sóng để diễn tả đặc điểm của tình yêu là một khám phá đặc biệt sáng tạo. Tình yêu cũng như sóng (đặc điểm trái ngược và vĩnh cửu), Em hoá thân vào sóng để tỏ lộ chiều kích lớn lao của tình yêu của mình (chiều không gian, chiều thời gian, chiều tâm thức), Em cũng khẳng định những giá trị của tình yêu (như sự thuỷ chung, một tình yêu rộng lớn vĩnh cửu, không phải thứ tình yêu vị kỷ nhỏ hẹp…). So sánh sóng với trầu, cau, thuyền, bến, chiếc áo, cây cầu, miếng ngói… thì tầm vóc của sóng lớn lao hơn nhiều. Điều đáng nói là, qua sóng, Xuân Quỳnh đạt tới sự tiếp cận tư tưởng. Những người làm thơ tình yêu đi sau Xuân Quỳnh khó mà vượt qua được XQ trong việc khám phá tứ thơ giàu chất trí tuệ, và có tầm vóc lớn lao như Sóng.
Hình tượng sóng trở thành một hình tượng đối sánh với nhân vật em. Hình tượng này được phát triển trong suốt bài thơ, từ sóng biển- sóng hiện thực, thành sóng hoá thân của Em và sóng tượng trưng cho khát vọng tình yêu của em. Đây là hình tượng tư tưởng, bởi sóng là đối tượng suy tư, khám phá của XQ, sóng không phải là vật thể, khách thể vật chất như Nguyễn Tuân miêu tả trong Người Lái đò Sông Đà :”Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…” Điều này nâng chất trí tuệ thơ Xuân Quỳnh, mà Sách Giáo Viên gọi là có chỗ đạt đến sâu sắc.
Hình tượng Em cũng là một hình tượng có màu sắc riêng, đó là người phụ nữ đang yêu, vừa có nét truyền thống, vừa có phẩm chất hiện đại.Truyền thống ở tình yêu thuỷ chung, sự kín đáo nữ tính, giàu đức hy sinh (nhận về mình tất cả những thiệt thòi trong tình yêu cách trở xuôi ngược). Hiện đại ở hình ảnh người phụ nữ suy tư sâu sắc, có tầm tư duy rộng trong thời gian và không gian. Người phụ nữ ấy tự tra hỏi tìm ra ý nghĩa tình yêu, giá trị cuộc sống, độc thoại, đối thoại trong tâm tưởng chia sẻ với anh. Và trong tương quan với anh, người phụ nữ hoàn toàn tự lập, không lệ thuộc vào anh, thẳng thắn bộc lộ tình yêu. Nếu thân phận HXH trong Tự Tình, đầy xót xa, thì tính cách Em trong Sóng đầy bản lĩnh.
Điều đọng lại trong lòng người đọc, và cũng là thông điệp đáng trân trọng của XQ, là khát vọng về một tình yêu mãnh liệt, sâu sắc, rộng lớn trong không gian, vĩnh cửu với thời gian. Đó cũng là khát vọng của mọi người yêu nhau trong cõi thế gian này.
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Đễ ngàn năm còn vỗ
_____________
(1) Tr.166 - Sách chỉnh lý hợp nhất năm 2000
(2). Nguyễn Đức Hùng - Cẩm nang ôn luyện môn Văn- thi vào Cao Đẳng-Đại Học,Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2011)
(3) Ngữ Văn- Ôn thi tốt nghiệp và tuyển sinh quốc gia. Nhóm tác giả : PGS-TS Lê Huy Bắc, TS Phan Huy Dũng, PGS-Ts Nguyễn Đăng Điệp, Ts Đào Thị Thu Hằng, PGS-Ts Lê Quang Hưng, Ths Nguyễn Thị Tuyết Nhung, Ts Nguyễn Văn Phương, Ts Chu Văn Sơn, GS.Ts Trần Đăng Chuyển, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội 2011.
(4) Tản Đà-Hơn nhau một chén rượu mời-Tuyển tập tản Đà, Nxb Văn Học, Hà nội. 1986. Tr. 87
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét