Sáng tác ca khúc, truyện ngắn và phê bình văn chương của Bùi Công Thuấn. Bạn cũng có thể đọc BCT tại http://yume.vn/buicongthuan
Thứ Ba, 24 tháng 8, 2010
NGỒI_VÀ NHỮNG THỂ NGHIỆM THẤT BẠỊ ?
phê bình văn chương
Bùi công Thuấn đọc văn Trẻ
NGỒI – VÀ NHỮNG THỂ NGHIỆM THẤT BẠI?
Tiểu thuyết NGỒI cuả Nguyễn Bình Phương.Nxb Đà Nẵng2006
Nhà văn Nguyễn Bình Phương
Khi Nguyễn Bình Phương (NBP) viết NGỒI, anh mới 36 tuổi (NBP sinh năm 1965). Trước đó anh đã in nhiều tiểu thuyết. Nhiều nhà phê bình có thế giá đã thâm nhập thế giới nghệ thuật cuả anh và dành cho anh những lời tôn vinh. Tôi quan tâm đến ý kiến Thụy Khuê (Pháp ), Đoàn Ánh Dương và Phạm Xuân Thạch …Các tác giả này đã khám phá NBP dựa trên những lý thuyết phê bình văn chương, nên nhận định của họ có tính học thuật, có thể giúp ích cho tác giả và cả người đọc. Cũng đã có nghiên cứu sinh viết luận văn thạc sĩ về tác phẩm cuả anh (*).Đi sau nhiều người đã viết về anh, tôi chỉ ghi những cảm nghĩ cuả mình với tư cách người đọc đối diện với tác phẩm, độc lập với mọi ám thị mà mình có thể bị lây nhiễm, để may ra góp được chút gì đó vào tiếng nói chung.
1.Một tác phẩm khó đọc và không hấp dẫn
Thú thực là khi tiếp cận với NGỒI, tôi phải đọc đi, đọc lại nhiều lần mấy chương đầu thì mới bắt được mạch truyện, và phải đọc đến quá nửa cuốn sách thì mới có một chút hứng thú để đọc tiếp. Nhiều lần đã định bỏ cuộc vì mệt mỏi và chán nản. Tác phẩm chẳng có gì đáng để mình tốn hao sức lực và thời gian để đọc. Toàn chuyện vặt đời thường, chuyện nghe tiếng nước đái, chuyện làm cá ở ngoài chợ, chuyện vượt đèn đỏ bị công an phạt, chuyện đọc báo, chuyện người tâm thầnở truồng đứng trong mưa, chuyện cô gái Việt Nam đi với một người đàn ông nước ngoài trên phố…. Nhưng nghĩ lại, nhà văn phải mất hơn 4 năm để viết tác phẩm, chẳng lẽ đó không là những nỗ lực đáng trân trọng ? và những gì nhà văn viết ra chẳng lẽ chỉ là những thứ vô bổ? Tôi phải tự động viên mình như thế mới có thể đọc tiếp. NGỒI là một tác phẩm khó đọc và không hấp dẫn
NGỒI khó đọc không phải vì nó chưá đựng những tư tưởng cao siêu, những hình tượng lớn lao quá tầm với của trí tuệ, những tri thức mà nhân lọai chưa vươn tới, hay những cách tân nghệ thuật ở Việt Nam chưa từng có. NGỒI khó đọc, đơn giản chỉ vì kỹ thuật trình bày cuả tác giả.
Những trang văn dày đặc chữ, đen kịt, liền mạch, không có một dấu chấm xuống dòng, luôn làm mỏi mắt và nản chí bất cứ người đọc nào. Thời đại hôm nay là thời đại cuả tốc độ, nhưng NGỒI bắt người đọc phải đọc thật chậm, từng chữ, từng dòng, chỉ cần chợp mắt lơ đễnh một chút là lạc mất mạch truyện ngay, lại phải lần mò lại.
Kỹ thuật viết liền mạch giọng kể của tác giả, giọng đối thoại cuả nhân vật giao tiếp, giọng độc thoại cuả nhân vật tự kể, làm người đọc rối trí. Thêm vào đó là số nhân vật dày đặc, sự việc đan cài vào nhau chằng chịt, rồi rắm, khiến người đọc khó lần ra mạch truyện chính. Ngay từ những chương đầu, tác giả đã ném sân khấu ra quá nhiều nhân vật, người đọc không sao nhận dạng được đâu là nhân vật chính, nhân vật phụ. Có nhân vật chỉ được nhắc tên, chưa thành hình hài một con người. Xin điểm danh : Khẩn, Nghiã, Hùng, vợ Hùng, Ông Tước, Ông Bình, Lão Việt, lão Bân, Trương, Quân, Thái, hoạ sĩ Hoàng Lân, Tân kều,Trinh gù, Chí, Cầu, Kiên, Du, Toán, Thịnh, Chuyền, Nhung, Thuý, Minh, Xuân, Kim, Liên, sư Liễn, gã tâm thần, bà bán khoai, vợ chồng người thương binh, kẻ dấu mặt gõ mõ, người bán vé số, các gái điếm, gã đạp xích lô, gã gầy ở xóm bần ven sông. Có cả con bé Chích Bông, con bướm, tấm vải ma nữa..ấy là chưa kể bao nhiêu khuôn mặt mà NBP miêu tả suốt 5 trang cuối (286-290) làm chóng mặt, hoa mắt người đọc. NBP muốn đem cả một xã hội vào tác phẩm.
NGỒI không có một cốt truyện hấp dẫn. Thay vào đó, là dòng chảy tự nhiên của sự việc theo thời gian, từng ngày qua đi với đủ mọi chi tiết vụn vặt của đời sống ở một cơ quan, một khu tập thể, của từng ấy con người, lặp đi lặp lại. Chuyện ở cơ quan, NBP ghi lại sự việc như ghi nhật ký, vô cảm. Lúc : sáng, chín rưỡi , đầu giờ chiều, ba giờ rưỡi, tầm bốn giờ, bốn rưỡi, năm rưỡi (tr.48)…..Ở khu tập thể, chỉ có chuyện tay thương binh chửi vợ. Chuyện mụ bán khoai đánh thằng bé và bị đi tù. Tiếng mõ cóc,cóc suốt tác phẩm (của một nhân vật không biết là ai). Bấy nhiêu thứ, cứ lặp đi lặp lại, chán ngắt, mệt mỏi. Không gian tù đọng, u uất không lối thoát
Có những điều làm người đọc rất khó chịu và không dễ đồng thuận với tác giả. Đó là việc tác giả đưa những câu chửi thề cuả tay thương binh (chương 2), của Hoàng Lân , những câu ghi tục tĩu trên tường vào tác phẩm. Người đọc có cảm giác bỗng dưng bị văng tục vào mặt. Nếu những câu nói đó cuả nhân vật được để trong ngoặc kép, người đọc sẽ hiểu rằng tác giả tường thuật lại. Đàng này, những câu chửi được trình bày trong dòng chảy hiện thực đang diễn ra, trên văn bản đang trực diện với người đọc,
“Hoàng Lân quàng tay qua vai Khẩn, thì thầm, hồi trước, khi nó đến trại điều dưỡng đón tao, tao thấy ngay là sẽ không ổn. Tiếng xích lô dầu trội lên kẽo kẹt mệt nhọc. Ngoài xa, thấp thoáng sau các khối sẫm màu nhiều hình thù, mặt hồ lấp lánh như một mảnh vải kim tuyến. Cặc thật.”(260)
Không gì có thể biện minh cho thái độ vô văn hoá trên, dù đó là lời của Hoàng Lân, một họa sĩ, đang nói với Khẩn, một đảng viên.
Từ Nữ Triệu Vương hỏi : những phát ngôn của nhân vật, vài ba từ tục tĩu lẽ ra phải viết tắt thì anh cứ để nguyên. Anh có thấy thế là tục tĩu quá chăng?
NBP trả lời : Không. Theo tôi, đời sống có những từ nào thì văn học có quyền đưa từ đó vào. Tại sao lại bỏ nó đi trong khi nó vẫn sống hằng ngày hằng giờ hằng phút với chúng ta? Những từ mà chị đề nghị viết tắt, nó là di sản dân tộc đấy, là tinh hoa đấy.(1)
Tôi nghĩ, hoặc NBP sa vào sự suy đồi Hậu Hiện Đại, hoặc anh đã không hiểu bản chất của văn chương là nghệ thuật ngôn từ. Nếu ngôn ngữ ngoài đời thế nào, cứ bê nguyên xi vào tác phẩm như thế, vậy cần gì phải có nhà văn trong cõi đời này, đâu cần có NBP. Hãy tôn những kẻ văng tục chửi thề bạt mạng ở đầu đường xó chợ lên thành nhà văn và đặt tượng trong Văn Miếu đi!
Sử dụng cách trình bày liền mạch lời kể, lời thoại cuả nhân vật, chuyển cảnh, chuyển tình huống mà không xuống dòng, không dùng các dấu câu, NBP đã không tạo ra bất cứ hiệu quả nghệ thuật nào. Ở đây tác giả là người đứng ngoài, thuật lại sự việc như ghi nhật ký, không phải là “dòng ý thức “ đang diễn ra trong đầu cuả nhân vật, vì thế kỹ thuật viết liền mạch được sử dụng vụng về chỉ làm khó người đọc và nhiều khi làm hỏng câu văn tiếng Việt.
Thí dụ:
“Thuý đang mệt vì mới từ Nghệ An ra, cáu tiết nói vỗ mặt trên ấy biết thì cũng giải quyết được gì”(tr.40) Câu này gây ra sự hàm hồ ở từ “trên ấy “ . “Vỗ mặt trên ấy”, hay “nói vỗ mặt, trên ấy biết…”. Dĩ nhiên đọc lại thì ai cũng hiểu như thế này : Thuý đang mệt vì mới từ Nghệ An ra, cáu tiết nói vỗ mặt:” trên ấy biết thì cũng giải quyết được gì”)
Thí dụ :
“Khẩn hỏi Ngọc, nhà mình đất có rộng không ? Cũng vừa thôi, Ngọc đáp nhìn Khẩn, tay vén mấy sợi tóc mai bị gió thổ loà xoà qua miệng”(tr51) Nhất thiết phải có dấu chấm (.) hay dấu phật (,) trong cụm từ chỉ hành động : Ngọc đáp nhìn Khẩn.Tiếng Việt không ai viết vậy!
2. Viết để phản ánh hiện thực, một kiểu tư duy đã quá cũ.
NBP trao đổi với Lê Nhi :” Cuốn sách này, tôi viết về sự giãy dụa của người công chức trong việc giữ gìn mô hình sống mẫu mực trước những cám dỗ của một xã hội đang phát triển. Có những cốt lõi mà họ không được vi phạm.Tuy nhiên, họ vẫn đang phải đối mặt với cái đám lùng nhùng ấy. Tóm lại, tôi muốn phản ánh tình trạng dở dở, ương ương của công chức đương thời.”(2)
Ta hãy xem NBP phản ánh thế nào ?
Chuyện cơ quan là như thế này. Khẩn là trưởng ban trong một cơ quan, có các nhân viên là Hùng, Nhung, Nghiã, Thuý, lão Việt. Lãnh đạo cuả Khẩn là Ông Thìn ( giám đốc),ông Tước (bí thư đảng uỷ). Cơ quan chia làm bốn năm phe (tr.205). Hàng ngày Khẩn vào văn phòng, nhưng tuyệt nhiên không thấy làm việc gì. “Giờ làm việc mà cứ đi nhông nhổng”(tr.22). Nhung, Hùng, Nghĩa thường đọc báo, rồi tán gẫu đủ mọi thứ chuyện trên đời. Hùng dẫn vợ đi chữa bịnh, lúc nào cũng thấy vay tiền người này người kia. Quân ẵm 500 triệu đồng của cơ quan rồi biến mất, cũng không thấy cơ quan hay công an điều tra ra sao. Thái ở Ba Lan về rủ đi Karaoké và đi chơi gái nhiều lần (tr. 91,123,185, 208). Nhung hay rủ Khẩn về nhà hành lạc (tr.45, 50,150,167, 194). Khẩn sống với Minh nhưng lại ăn nằm với Nhung và mụ bán khoai (tr.232, 245). Thuý cặp với Quân nhưng lại để cho Nghiã làm tình, và mời Khẩn đến nhà để đòi sex nhưng Khẩn từ chối (tr.173). Liên rủ mọi người đi phủ ăn bánh tôm. Xuân may mãi không xong cái áo của Minh. Minh chỉ ngồi đánh máy ở nhà. Họp cơ quan. Lão Việt đề nghị hạ bậc thi đua cuả Nghiã, bị Nghiã hắt chén nước trà nóng vào mặt. Lão bị bắt quả tang đang làm tình với con Tỉnh trong nhà vệ sinh Nam, từ đó gây ra sự gằm ghè giữa ông Thìn và ông Tước, cuối cùng lão bị ông Tước cho nghỉ hưu, Lão nhờ Khẩn trả lại thẻ Đảng. Chuyện lão Bân nhờ cậy Khẩn đưa cháu vào làm trong cơ quan, chuyện cơ quan đi chơi Hạ Long. Hành chánh thanh lý bàn ghế cũ. Hùng hỏi chuyện chưã tiểu đường, mọi người bàn tán bệnh tình của Nghiã. Sau nhiều lần “đá chân đất” với gái (không dùng bao cao su) (258), Nghiã bị HIV/AIDS. Hùng bị lão già “bố hờ” lừa. Lão Việt bị gài bẫy…, kết thúc tác phẩm, Khẩn ngồi bên cột điện ở lề đường. Chương 11, 22, 26, 31, 35 là những chương tiêu biểu.
Nếu hiện thực ở một cơ quan Nhà Nước chỉ là vậy, thì đó là một phản ánh rất méo mó. Đành rằng có những nơi, những lúc, có những hiện tượng tán gẫu, áp phe, kèn cựa trù dập, chạy chọt mánh mun trong cơ quan, nhưng không một cơ quan nào mà nhân viên chỉ đến chơi, không làm việc gì cả, mà nơi ấy có lãnh đạo, có giám đốc, có đảng uỷ hẳn hoi. NBP phơi bày ra một cơ quan mà các nhân viên nam sau khi đến phòng làm việc, đọc báo, tán gẫu rồi rủ nhau đi chơi gái, các nhân viên nữ rủ đồng nghiệp nam về nhà hành lạc. Nếu hiện thực Việt Nam là như thế thì đất nước này đã đến ngày tận thế rồi!
Nhưng NBP lại miêu tả rất chân thực, rất “tài năng “, những cảnh làm tình, những cảnh chơi gái, đến độ người đọc có cảm giác mình xem một phóng sự bằng hình mà góc quay đã lấy được cận cảnh, máy thu âm đã thu được những âm thanh rất nét, hình ảnh hiện lên còn thực hơn cả thực.
Ở khu tập thể, NBP cũng chỉ ghi lại những cái nhếch nhác của hiện thực. Anh hoàn toàn vô tâm đối với đời sống của cộng đồng. Trong suốt tác phẩm, lúc nào cũng vang lên tiếng chửi tục tĩu từ nhà tay thương binh . Tiếng mõ khô khốc không biết cuả nhà ai. Mụ bán khoai làm tình dưới gốc cây bằng lăng. Mụ ở tù về, vì đánh thằng bé. Khi Khẩn đi ngang phòng mụ, mụ kéo khẩn vào, đóng cửa lại và đòi Khẩn làm tình. Còn lại là hình ảnh lởn vởn của Lão bán vé số, của gã tâm thần đứng trong mưa “dái đéo gì mà to thế không biết “(tr.189). Đôi khi NBP có dẫn người đọc đi xa một tí, ra bờ hồ, ngồi ghế đá nghe bọn đồng nát nói chuyện, đến xóm bần cùng, đến đền thờ Chử Đồng Tử, hoặc dự vào chuyện căng thẳng của gia đình Nhung. Mẹ Nhung lấy người nước ngoài bỏ chồng. Khi bà của Nhung chết, mẹ Nhung và ngưới đàn ông ấy có về phúng viếng, mẹ Nhung bảo Nhung đi nước ngoài với bà, nhưng Nhung từ chối vì tin rằng bố bị mất tích trong chiến tranh sẽ về.
Rõ ràng là NBP đã không phản ánh chân thực đời sống xã hội Việt Nam hôm nay, mà chỉ ghi lại một vài hiện tượng nhếch nhác của một bộ phận nổi trên mặt của hiện thực ấy. Hiện thực bày ra chỉ có mặt tối. Trong tác phẩm, vắng bóng những nhân vật tích cực. Tôi không thấy đâu là “sự giãy dụa của người công chức”, trái lại họ rất tự nhiên và thoải mái sống cái lối sống thực dụng vô luân ấy. Không một nhân vật nào trăn trở về hành vi cuả mình, bằng chứng là Nghiã, Hùng, Khẩn đi chơi gái nhiều lần, Nhung rủ Khẩn về nhà làm tình nhiều lần, chẳng bận tâm suy nghĩ gì. Khẩn sống với Minh nhưng lại vùi mặt vào thân thể trần truồng của Nhung và đáp ứng đòi hỏi xác thịt của mụ bán khoai. NBP chưa viết một dòng nào miêu tả sự cắn rứt lương tâm cuả Khẩn về hành vi vô luân ấy.
Cũng cần xem thái độ phản ánh cuả NBP là thế nào? Thái độ ấy thể hiện trước hết ở cách xây dựng nhân vật, ở cách NBP mượn lời nhân vật mà nói thẳng ra.
Hoàng Lân mời Khẩn đến uống rượu, ông ta hộc lên “bọn tao đổ máu không phải để cho mày phè phỡn như thế này. Cút ngay”. Khẩn ” nhìn Hoàng Lân bằng con mắt lạnh lùng, máu, máu, lúc nào các ông cũng lấy máu ra kể công, nhàm lắm rồi”(tr.87). NBP mượn lời ông Thìn để diễu nhại câu này :”chỉ có thế hệ chống Mỹ mới đủ bản lĩnh cầm chịch mọi thứ”(tr205). NBP tả người thương binh thế nào ? Cả hai thương binh đều không còn chút phẩm chất lính. Tay thương binh ở khu tập thể chỉ có chửi vợ, rồi giết vợ . Hoàng Lân chỉ có phẫn uất, văng tục. NBP nhận xét gì về các đảng viên? Đảng viên trẻ như Khẩn, đảng viên già như Lão Việt, tất cả chỉ có làm tình vô luân. Ông Tước và ông Thìn chỉ có gằm ghè nhau quyền lực… Những điều như thế có lộ ra thái độ của NBP trước thực tại không ?
Nếu thực tâm của NBP viết NGỒI là để “phản ánh tình trạng dở dở, ương ương của công chức đương thời”, tôi nghĩ anh đã không đạt được mục đích của mình, bởi vì tư duy tiểu thuyết phản ánh hiện thực đã là quá cũ. Chủ nghiã Hiện Thực đã hoàn thành sứ mạng của nó từ lâu rồi. Phản ánh hiện thực là một thuộc tính và cũng là phẩm chất của văn chương, nhưng văn chương là nghiền ngẫm hiện thực, không phải là coppy lại hiện thực. Nếu anh chọn mục đích phản ánh hiện thực thì anh sẽ luôn bị mắc kẹt trong chính mục đích này, hoặc là phê phán hiện thực hay là tô hồng hiện thực. Từ Nữ Triệu Vương có nhận xét này, tôi cho là, rất chính xác :” Hiện thực trong tác phẩm của anh xem ra hiện thực đến mức ngây ngô. Thế cho nên có cho cảm tưởng như tác phẩm sa vào tự nhiên chủ nghĩa,…”(đd)
3. “Tôi sẽ đặt bút chấm hết một lối tư duy vì thấy rằng cần phải kết thúc”(3)
Khi được hỏi Tác phẩm của anh có phải là một sự quay lại của Tiểu Thuyết Mới không, NBP trả lời :
- Về chuyện người ta bảo thế nào thì tôi không can thiệp, cũng chẳng đính chính. Vấn đề ở chỗ tôi thấy hài lòng hay chưa hài lòng với những gì mình viết, mọi thứ còn lại là thứ yếu. Người viết văn cần một sự bảo thủ, rát cần, ấy là tôi nghĩ cho riêng mình thế. Tôi nghĩ và làm theo cách của tôi, không mấy quan tâm tới những gì xung quanh. Tôi đánh cuộc là không nhiều người ở ta hiểu rõ và đọc cho đủ cái gọi là tiểu thuyết mới để tự tin so sánh nó với những cái khác. Phần đông vẫn chỉ láng máng, trong số đông đó có tôi.(4)
Như vậy NBP phủ định việc anh viết theo lý thuyết này hay trào lưu khác. Anh viết theo quan niệm nghệ thuật của anh. “Tôi nghĩ và làm theo cách của tôi “. Nhận định cho rằng anh quay lại trào lưu Tiểu Thuyết Mới (mà tiêu biểu là Alain Robbe Grillet) chỉ là suy diễn của nhà phê bình.
Trong cách phê bình suy diễn thì bài viết của Thuỵ Khuê (5) là có ác ý. Thuỵ Khuê khai thác NGỒI như một ẩn dụ, nhưng sau đó tráo trở, dùng phản ánh luận, gán ghép ý nghiã suy diễn cho NGỒI, để nói về xã hội Việt Nam, nói về người trẻ…
“Những nhân vật khả nghi, những sự kiện bất trắc tạo nên không khí Kafka toàn diện mà tất cả đều có cảm tưởng mình đang bị theo dõi, rình rập, gài bẫy. Sợ hãi và bất an bao trùm…
Một xã hội sống với bóng ma quá khứ mà thờ ơ với hiện tại. Một lớp trí thức đảng viên trung thành với mồ ma lãnh tụ qua hình ảnh Khẩn, cố bám víu vào những đặc lợi cuối cùng…
Một xã hội bị dồn nén sinh lý trong hơn nửa thế kỷ dẫn đến tình trạng phóng đãng triệt để: mở cửa kinh tế dẫn đến mở cửa xác thịt dưới nhiều hình thức…
Khẩn là người cộng sản đầu tiên nhận thức được tình trạng cáo chung của chính mình..
Độ dày của tác phẩm Ngồi không chỉ là 291 trang, mà là nghìn trang chập lại, bởi nó có tham vọng phản ảnh đời sống toàn diện của nước Giao Chỉ dậm chân tại chỗ trong sa đọa nhiều chiều.
”
Đó là những nhận định hết sức hồ đồ về ý nghiã cuả NGỒI. Thuỵ Khuê đã phơi bày một cách trơ trẽn mục đích chính trị cuả mình qua những diễn ngôn đầy tính công kích và xuyên tạc. Hơi hướng học thuật của bài viết được Thuỵ Khuê dùng để bóp méo nội dung tác phẩm. Nó trở nên vô giá trị trong việc khám phá thế giới nghệ thuật cuả NGỒI. Mặc dù ở Pháp và có tuổi đời khá già dặn trong nghề viết phê bình, Thuỵ Khuê vẫn không thoát được lối phê bình xã hội học, suy diễn, chụp mũ chính trị. Và nếu người đọc tin rằng những điều Thuỵ Khuê nói là thật, thì không biết những oan khiên nào sẽ chụp xuống đầu NBP
Vậy “Tôi nghĩ và làm theo cách của tôi “, tức là tư duy và bút pháp của NBP trong NGỒI là gì ?
Trước hết, nhân vật kể truyện vừa là tác giả ghi nhật kỳ, vừa là Khẩn hồi tưởng. Mạch truyện kể lại các sinh hoạt của các nhân vật ở cơ quan là mạch truyện chính. Mạch kể này sử dụng bút pháp hiện thực. Tuyến truyện trôi đi theo thời gian từng giờ, từng ngày, từng sự việc cụ thể. Chẳng hạn, chương 22, là những chuyện bát nháo trong phong làm việc : Nghiã và Hùng cãi nhau - Khẩn ngồi đọc báo- Ông Tước mời Khẩn xuống phòng bảo viết lại tờ trình cuộc họp hôm rồi - Khẩn cãi nhau với lão Việt - Ông Tước nói chuyện cơ qua đi nghỉ ở Yên Tử. Thái gọi điện mời ăn cơm vì sắp đi Bal an. Nhung rủ Khẩn đi xem đất, dọc đường gặp Thuý đang phóng xe đi…Những việc như thế hoàn toàn là hiện thực, nó chỉ có nghĩa tường thuật, nghiã thông tin, không hề có gì là ẩn dụ. Cả truyện NGỒI là cách viết như thế.
Xen vào đó là những chuyện kể của các nhân vật. Họ kể về những giấc mơ, những truyền thuyết
Chẳng hạn: Khẩn nhiều lần mơ. Một lần mơ thấy bà già chết thì hôm sau bà cuả Nhung chết (tr.67). Mụ bán khoai mơ thấy thằng bé chết, sau đó nó chết thật (tr.247). Liên kể chuyện tinh rồng (tr.213). Khẩn và Kim đọc truyền thuyết về thần núi Tản Viên và Cao Biền (chương 37). Ngọc nói chuyện bố mẹ mơ thấy Quân, giấc mơ giống như Khẩn đã mơ (tr.238), Nhung mơ con đường toàn hoa quả (195). Xuân kể giấc mơ thấy Xuân mặc áo tàng hình (tr.66), giấc mơ cuả sư Liễn lúc 14 tuổi (199). Ngọc bói chén để tìm tin tức về Quân (tr.53), quẻ bói ngày xưa về Khẩn (tr.139), chuyện Trương bị thánh tướng nhập (tr.277), chuyện Khẩn nhìn thất ánh sáng tinh rồng (tr.278), Khẩn linh cảm có người âm hiển hiện ngăn mình với Thuý (tr.176), Khẩn mơ thấy mình ngồi trên một chiếc xe mây ngũ sắc bay qua đỉnh núi (tr.284)…Đó chỉ là những chi tiết được lắp ghép vào mạch chính. Những chi tiết hoang đường, những giấc mơ ấy không câu kết để làm nên một tầng ý nghiã khác như các nhà phê bình suy diễn ra. NBP khai thác những chuyện duy tâm dân gian ta thường gặp trong sinh hoạt hàng ngày cuả người Việt. Nó được thêm vào để tạo ra sự hấp dẫn cho tác phẩm. Kim bảo thẳng “ đó là giấc mơ dở hơi, một ảo ảnh chẳng đâu vào đâu”(tr.57) Khẩn bảo đó là Những giấc mơ dấm dớ :” Tóm lại đó là một giấc mơ dấm dớ chẳng kém gì cái giấc mơ ông già kỳ cục phá trận huyền đồ huyền điếc gì đấy “ (chương 35. Tr.201). Bạn đọc hãy thử xâu chuỗi xem, cái chết của bà Nhung, cái chết cuả thằng bé, chuyện ông giá phá Huyền Đồ, chuyện Trương bị ma nhập, chuyện Khẩn thấy tinh rồng, xem có thành một cấu trúc truyện để diễn tả một tầng ý nghiã khác cuả tác phẩm không. Rõ ràng là những chi tiết ấy, những câu chuyện ấy đơn thuần chỉ là tán gẫu, chỉ là lắp ghép thêm vào, chẳng gắn bó gì với nhau, hay nói khác đi, đó là cách NBP bắt chước lối kể truyện trong sinh hoạt dân gian vào việc xây dựng tác phẩm.Và nếu bỏ những chuyện “dấm dớ” ấy đi thì NGỒI còn lại gì để hấp dẫn người đọc?
Trong cách viết, nhiều khi NBP tả cặn kẽ từng chi tiết. Chẳng hạn chuyện bà bán cá ở chợ làm con cá cho Minh (113), chuyện Ngọc bói chén (giống như cầu cơ,tr.53) Tả chi tiết quan tài.(Tr.68), chi tiết sư Liễn cúng.(tr.71), tả chi tiết ngón tay gõ nhịp của Thuý (tr.202) và viền quần lót của cô (tr.203) :”Khẩn dắt xe ra sau, nhìn theo Thuý thấy rất rõ đường viền của chiếc quần lót hằn lên trên đôi mông thuôn thuôn gọn ghẽ.” Tôi không rõ mục đích tả những chi tiết này của NBP. Có lẽ anh cố gắng ghi lại những sinh hoạt dân gian làm tư liệu cho người đi sau, hay chỉ là thủ thuật của nhà làm phim truyện dài tập, quay tỉ mỉ từng chi tiết, để kéo dài số tập cho ngày phát? Thật là mất thì giờ vô ích để đọc những chuyện vặt vãnh như vậy.
Nói cho chính xác, cách kể chuyện của NBP là cách kể của người nông dân. Người nông dân thường cà con kê, chuyện nọ xọ chuyện kia, từ chuyện đời đến chuyện dân gian, từ chuyện tục đến chuyện thần tiên ma quỷ, chuyện bói toán, chuyện nhập đồng, chuyện mơ thấy người chết, chuyện cuả những người đồng nát, chuyện của các bà viếng chuà… Đoàn Ánh dương hoài nghi:” Nói cách khác, dòng sông mà bấy lâu Nguyễn Bình Phương bồi tụ phù sa có cần thêm một sự nắn dòng?”(6) . Tôi hiểu Đoàn Ánh dương muốn nói đến sự chệch hướng của NBP ?Tôi cũng hiểu tại sao NBP nói đến việc “đặt bút chấm hết một lối tư duy vì thấy rằng cần phải kết thúc”.
4. Những nỗ lực thất bại của Nguyễn Bình Phương
Có thể nhận thấy rõ nỗ lực của NBP muốn xây dựng nhân vật Khẩn thành nhân vật tư tưởng, nhưng anh đã thất bại.
Chương 1 và đọan kết cuả chương cuối là hình ảnh Khẩn ngồi, như một ẩn dụ, có khả năng gợi ra những suy tư về thân phận con người. Đã có nhà phê bình khai thác ý nghiã ẩn dụ này, ẩn dụ đến từ ngữ. Cũng cần kể đến ý nghiã ẩn dụ có thể có ở hình ảnh Kim, tiếng mõ, chiếc áo bí ẩn, con bướm, tinh rồng, và cả trong truyền thuyết thần núi Tản Viên…
Khẩn là một công nhân viên, một trưởng ban, một đảng viên. Nhưng đời anh tất cả đều dở dang. Chuyện tình với Kim, sâu đậm trong tâm hồn Khẩn, nhưng chỉ là phù phiếm, Khẩn bảo “đời người cũng phù phiếm như khói “. Hai người chia tay không hẹn gặp lại. Kim biến mất vào hư không (285). Khẩn không giúp được gì trong việc tìm tung tích bố Nhung, không giúp được lão Bân xin việc cho cháu, không giúp bảo vệ lão Việt khỏi gài bẫy; dù đã chở Thuý đi tìm vất vả, Khẩn cũng không giúp Thuý tìm thấy Quân. Ăn ở với Minh, nhưng Khẩn cũng không tìm được việc làm cho Minh, bản thân Khẩn bị kẹp giữa giám đốc Thìn và Đảng uỷ Tước, chỉ biết chịu trận.
Lối thoát nào cho Khẩn ?
Có lúc Khẩn muốn rũ bỏ tất cả (tr.216). Sư Liễn nói Khẩn có căn tu. Ở chuà Đồng, Khẩn lạc vào cơn nhập đồng nói chuyện với cây tùng, ngỡ mình đã ở đó, đã là cây tùng, trạng thái của Khẩn như là ngộ Thiền (tr.164). :” Khẩn lảng ra chỗ vắng, tiến lại sát mép núi cẩn thận ngó xuống và thấy dưới chân mình là một khối sương đùng đục lô xô như một đám mây khổng lồ. Lúc ấy Khẩn mới thấm hết giá trị của cuộc đi này. Khẩn đang ở trên mây, đang ở cái nơi mà chỉ cần lảng xa mọi người một chút thôi, một sải tay thôi sẽ thấy rằntg mình đã từng quá ồn ào, đã từng ham hố nhiều quá, mình bé mọn quá, đục quá. Một vật chặn ngang lồng ngực Khẩn quá lâu giờ bất ra và tất thảy trở nên thông suốt, rạt rào “(tr.161) . Đó là trạng thái giác ngộ hay chỉ là một sự xả stress sau những năm tháng quá mệt mỏi ?
Nhưng Khẩn còn là một con người khác, con người tha hoá và bất lực. Khẩn đi chơi gái nhiều lần, làm tình với nhung nhiều lần, làm tình với mụ bán khoai nhiều lần, nhưng không hề có ý thức xã hội gì về lối sống đồi truỵ và vô luân như vậy. Anh còn luôn mặc cảm về cái giống cuả mình không to bằng cuả người đàn ông nước ngoài (tr.136).Vừa làm tình với Nhung xong, Khẩn về nhà nằm ngủ bên Minh mà không ray rứt gì. Cũng vậy, vừa lén lút làm tình với mụ bán khoai xong, Khẩn về nhà với Minh, thản nhiên, không mặc cảm gì về sự phản bội. Thế nhưng khi được Thuý gọi đến nhà, cô ta thoát y truớc mặt Khẩn và đòi Khẩn sex, Khẩn lại từ chối và bỏ đi (có lẽ Khẩn bị người âm ngăn chặn). Cũng vậy, anh đi chơi gái với Hùng, Nghiã mà chẳng ham hố hưởng thụ (chương 23, 31), có lẽ Khẩn không có hứng thú (chương 18) hay chỉ là phòng bịnh? Làm tình với Nhung như cơm bưã nhưng lúc đến cơ quan làm việc Khẩn không có một chút tình ý gì. Khẩn không được miêu tả tâm trạng , thành ra người đọc thấy Khẩn như một kẻ vô cảm, một kẻ vô luân không ý thức, một kẻ tha hoá không tự nhận biết. Khẩn là “kẻ vô tâm, thờ ơ”(tr.169). Cũng có khi Khẩn hành động như một người có quyền lực. Trong buổi họp về việc lão Việt tằng tịu với con Tỉnh trong nhà vệ sinh nam, Khẩn chỉ nói một câu thì cả phòng ban không ai còn có ý kiến gì. Ấy là Khẩn đang bị xô dạt giữa các lực đẩy là ông Thìn và ông Tước.Nói cách khác, Khẩn bị trôi đi giữa dòng đời một cách thụ động, và không cưỡng lại. Nhung gọi đi thì Khẩn đi, mụ bán khoai cầm tay lôi vào phòng thì Khẩn vào và làm theo yêu cầu của mụ. Kim luôn cuốn hút Khẩn trong tâm tưởng, sau đó Kim chia tay, Khẩn không phản ứng. Khi bị ông Tước kiểm điểm (tr.273), Khẩn chỉ “vâng” như một cái máy.
Do đâu Khẩn có hai con người mâu thuẫn nhau như vậy. Ở đây không phải là Khẩn sống hai thế giới như một sự phân thân (7). Cũng không phải tác phẩm có hai tầng ý nghiã, vừa phản ánh thực tại đang diễn ra và một thực tại khác trong thế giới thần kỳ (magic Realism). Xin lưu ý, Khẩn có chứng đau đầu, trạng thái đau đầu xuất hiện nhiều lần ngay cả khi Khẩn đang làm việc. “Khẩn trở lại bàn cố gắng tập trung làm nốt phần việc bỏ dở nhưng vẫn không được. Có lẽ chưa bao giờ Khẩn khó điều khiển mình đến thế, mọi thứ cứ lộn tùng phèo cả lên, cứ quay cuồng thất điên bát đảo. Khẩn vỗ vỗ vào đầu, nhận ra cơn đau đến từ lúc nào, nó đang hoành hành dữ dội mà Khẩn không hề biết “(tr.228) Có lúc tưởng như điên lên, mọi thứ trở nên quái đản. Những lần bị va đập vào đầu, Khẩn ngất đi và chìm vào cơn mơ về Kim, nói chuyện với chính minh, như người tâm thần (Khẩn xưng hô là mình ). Trong thẳm sâu, Khẩn có những mặc cảm và ý thức khao khát tự do. Mâu thuẫn cuả Khẩn là ở chỗ, anh cố vươn lên một cái gì đó thanh khiết, cao đẹp (Kim), trạng thái thanh tĩnh như lúc ở chùa Đồng, muốn sống tốt đẹp với mọi người, nhưng lại bị cuộc sống thúc ép, bó tay bất lực và chứng đau đầu làm anh sống trong hoang tưởng , lúc nào cũng mơ, cũng thấy người cõi âm ( con bướm là người chết hiện hồn, mơ thấy hồn bà cuả Nhung, nhìn thấy tinh rồng, cảm nhận có ai đó hiện về đứng giữa Khẩn và Thuý tr. 176…) . Khẩn muốn thoát ra, muốn tự do như những người khách nước ngoài :” Trong ánh đèn đỏ của nhà hàng, Khẩn lặng nhìn mấy thanh niên nước ngoài đầu trọc đang đứng uống nước khoáng ở quầy, lòng thèm được như họ. Sống thế mới là sống. Tự do đi lại, tự do khám phá, chỗ nào hay thì đến, chẳng cần biết nó thuộc hệ tư tưởng này, hệ tư tưởng kia. Khẩn nói ra ý nghĩ ấy với Nghiã…”(tr.123)
Trong những nghĩ suy hoang tưởng như thế, Khẩn nhận ra sự biến mất cuả con người trong cõi đời này, như những ký tự bị delete trên máy tính.”Khẩn hình dung ra những ký tự kia là người và một ký tự bị xoá đi, biến mất thì cuộc đời này lại dở dang thêm một chút, vô nghiã thêm một chút. Ý nghĩ ấy thôi thúc Khẩn đánh tên mình vào sau đó tự xoá nó đi “(tr.114). Trong tác phẩm, Quân biến mất không thể tìm ra tung tích. Kim biến mất sau khi chia tay với Khẩn (285), Trương biến mất sau cơn nhập đồng (tr.277) và sau cùng cả Khẩn từ lúc khai sinh (chương 1) cũng biến mất ở những dòng cuối (291). Phải chăng NBP suy tư về sự tồn tại, suy tư về hiện sinh ? Việc Khẩn đi làm ở cơ quan, đi chuà, đi chơi gái, quan sát gã tâm thần, mặc cảm về cái giống, ao ước được tự do đi đây đi đó, chỉ là những cảm thức khác nhau về hiện sinh ở Khẩn. Hiện sinh dở dang, hiện sinh vô nghiã, hiện sinh quy tử?Tôi không tin rằng NBP đã đạt tới ý thức triết học này trong bản thể nhân vật Khẩn.
Nếu quả thực NBP muốn xây dựng NGỒI thành tiểu thuyết tư tưởng thì sẽ trái với mục đích “phản ánh tình trạng dở dở, ương ương của công chức đương thời.” Ở cả hai phiá, anh đều thất bại. Phản ánh của anh là những hình ảnh méo mó như hình ảnh khúc xạ qua nước (tr.16) và tư tưởng cuả anh lẫn lộn giữa duy tâm dân gian (cõi dương và cõi âm ), Thiền và Hiện sinh, chẳng ra sao cả!
Mặc dù NBP đã dồn nhiều công sức cho tác phẩm (anh viết 4 năm trời ) nhưng lực bất tòng tâm, ngòi bút của anh chỉ có thể dừng lại ở cái thế ngồi của Khẩn mà thôi. Từ lúc khai sinh đến lúc biến mất đi trong cõi đời này, Khẩn chỉ ngồi trong hoang tưởng. Thế ngồi nửa Thiền nửa hành khất (tr.47). Cột đồng, con chim chết, hòn đá, những khuôn mặt người hiện ra trong mắt Khẩn, chỉ là hình ảnh hoang tưởng, không có ý nghiã tư tưởng gì, cũng chẳng là ẩn dụ cho cái gì như người ta cố ý suy diễn ra. Tất cả là do chứng đau đầu gây nên ( anh luôn bị những cú nổ đanh trong đầu hành hạ .tr.181), do tính cách yếu đuối của Khẩn, và do thể tạng con người cuả Khẩn, nhạy cảm với cõi âm. Lần đi chơi chùa Đồng, Nhung đã đi tìm Khẩn và nói :”Khiếp, anh như ma xó thế này làm bọn em hết cả hồn”(tr.164). Lần khác, khi Khẩn ngắm gã tâm thần và nói với Nhung rằng anh rất tò mò về những người tâm thần và người điên, anh thấy họ như người giời ấy. Nhung bảo “vâng người giời, không khéo rồi anh cũng thành người giời nốt cho mà xem “(tr.189). Chỉ có thể lý giải sự mâu thuẫn trong tính cách cuả Khẩn bằng những yếu tố sinh-tâm lý mà NBP miêu tả cụ thể như thế, không là ẩn dụ, không thể suy diễn nào khác.
5. Ngòi bút Nguyễn Bình Phương có gì đặc sắc không?
Cũng cần nói thêm điều này, trong NGỒI, NBP miêu tả sex dày đặc. Quá nhiều cuộc làm tình của Khẩn và Nhung, của Khẩn với mụ bán khoai, của mụ bán khoai với người đàn ông dưới gốc bằng lăng, cuả lão Việt với con Tỉnh trong nhà vệ sinh nam, cuả Thuý và Nghiã và nhiều lần Khẩn, Nghiã, Hùng đi chơi gái. Quan điểm của NBP về vấn đề này thế nào ?
Từ Nữ Triệu Vương hỏi : Thế còn chuyện quá nhiều sex trong Ngồi thì sao?
NBP :- Nào có sao? Sex đâu phải con ngáo ộp, nó là một trong những hành động giao tiếp đỉnh
cao, thế thôi.
Từ Nữ Triệu Vương : Nhưng chả lẽ chỉ có thế? Chả nhẽ sex trong tác phẩm của anh chỉ là
sex và anh coi đó "là hành động giao tiếp đỉnh cao"
NBP :- Tại sao lại phải gửi gắm? Tại sao cứ nhất thiết phải bắt sex đèo bòng thêm những thứ khác? Bản thân nó đã là quá đẹp, quá nhân văn, nó trọn vẹn là chính nó với đầy đủ các giá trị rồi. Quả cây chín nào đâu phải có ý gì? (đd)
Nghe NBP trả lời, tôi biết anh chịu ảnh hưởng phương Tây trong nhận thức suy đồi về sex.Anh cho rằng bản thân sex đã là quá đẹp, quá nhân văn, nó trọn vẹn là chính nó với đầy đủ các giá trị rồi. Anh miêu tả sex chỉ là sex, miêu tả tràn lan trong tác phẩm. Đó là quyền của nhà văn. Điều anh nói không sai khi sex là hành vi cuả tình yêu, của ý thức trách nhiệm lứa đôi, của hai con người có văn hoá, ở trong phòng riêng, cách ly với xã hội bên ngoài. Khi nó trở thành một hành vi xã hội, nó phải mang những giá trị cuả xã hội. Vì thế Lão Việt mới bị đem kiểm điểm khi tằng tịu với con Tỉnh ở nhà vệ sinh nam, sau đó bị thôi việc. Nghiã phải trả giá cho hành vi sex thoải mái cuả mình với gái điếm bằng HIV/ADS, và không biết anh ta có lây truyền cho Thuý không, có lây truyền cho những cô gái khác, và các cô gái ấy lại lây nhiễm cho bao người khác! Thưa nhà văn , khi miêu tả sex trong tác phẩm và tác phẩm ấy phơi bày hàng ngàn bản trong xã hội , thì sex cuả nhà văn đã trở thành hành vi xã hội. Nó phải được miêu tả trong phạm vi của ý thức thẩm mỹ, ý thức đạo đức, ý thức văn hoá của cộng đồng. Nó không còn là hành vi của cá nhân trong phòng riêng. Trong NGỒI, NBP không chỉ miêu tả sex là sex, mà còn miêu tả sex vô luân, điều ấy không thể chấp nhận được. Người đọc có quyền nói vậy.Tôi nghĩ rằng anh đã tự làm hỏng ngòi bút cuả mình!
Nếu bỏ qua những yếu tố kỹ thuật NBP làm cho trang văn trở nên khó đọc, bỏ qua việc miêu tả sex vô luân, bỏ qua việc phản ánh hiện thực một cách méo mó, thì trang văn của NBP còn lại những gì ?
NBP có khả năng miêu tả thật sống động các chi tiết rất nhỏ. Chân dung nhân vật của anh được vẽ bằng những nét sắc xảo. Những trang tả cảnh thiên nhiên có khả năng tạo ấn tượng. NBP cũng tái hiện những cảnh sinh hoạt đời thường như nó đang diễn ra trước mặt ( cảnh Nghiã, Hùng, Khẩn trong quán chơi gái (tr.91), chuyện bói chén, chuyện cuả đồng nát, chuyện gã tâm thần bị dè bỉu, chọc ghẹo). Anh tả trạng thái nhập đồng của Khẩn ở chỗ cây tùng trên chuà Đồng thật xuất sắc. Khẩn như trong trạng thái “ ngộ” Thiền cuả các Thiền sư (tr.164). Cơn thánh nhập của Trương diễn ra thật dữ dội. Anh ghi được thần thái tính cách, ngôn ngữ của nhân vật cơ quan, đặc biệt là ông Thìn và ông Tước. Anh khéo khai thác những nhân vật vô hình (người gõ mõ), những yếu tố bí ẩn (tấm hình có chữ Niểu), tấm vải, truyền thuyết về lệ trà. Tiếng mõ cũng là một bí ẩn. Có người đã cố khai thác ý nghiã ẩn dụ của tiếng mõ (8), NBP nói rằng tiếng mõ đều đều, với thế giới yên ả, nghiêm túc trong ký ức Khẩn chỉ là sự tương phản với cuộc sống xô bồ ngoài đời mà thôi (1, đd). Rất tiếc anh lại không miêu tả tâm trạng nhân vật, khiến cho nhân vật cuả anh hoàn toàn vô cảm, trở thành vô luân.
Dù NBP có nói rằng Tôi nghĩ và làm theo cách của tôi, nhưng người đọc vẫn nhận thấy rõ ảnh hưởng của chủ nghiã Hiện Thực Thần Kỳ (magic realism) và Hậu Hiện Đại trong NGỒI. Thực ra anh mới chỉ tiếp thu một số kỹ thuật, chưa thực viết tác phẩm trong ý thức sáng tạo của những trào lưu này. Chẳng hạn sự lắp ghép những yếu tố thần kỳ, bí ẩn, những truyền thuyết dân gian vào cốt truyện chính; chẳng hạn tạo ra một cốt truyện lỏng lẻo, sự hỗn độn, những vòng lặp, những yếu tồ ngẫu nhiên, sự xô bồ của ngôn ngữ..Dù sao tôi vẫn thấy trong cốt cách văn chương cuả NBP bóng dáng Nam Cao, Nguyễn Minh Châu và cả Nguyễn Huy Thiệp. NBP chưa thực sự mới.
Trong số những cây bút trẻ, NBP là người có ý thức sáng tạo riêng. Anh có khả năng để đi tiếp con đường sáng tạo nhọc nhằn này. Cố nhà văn Nguyễn Đức Thọ khi nhìn về tương lai sáng tác của mình đã thốt lên câu Kiều :”Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh “.Tôi tin rằng NBP “thực sự còn là một cái gì nữa chứ không phải chỉ là thế này “(243)
Tháng 8/2010
________________________________________________
(*) Nguyễn Thị Ngọc Anh. ĐH Thái Nguyên-ĐHSP : Luận văn Thạc sĩ :
Yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương.
http://www.lrc-nu.edu.vn:8080/gsdl/collect/luanvanl/index/assoc/HASH015a/7057d31b.dir/doc.pdf
(1) http://www2.vietnamnet.vn/vanhoa/tintuc/2006/10/621894/
(2) http://vietbao.vn/Van-hoa/Xon-xao-voi-Ngoi-cua-Nguyen-Binh-Phuong/70071875/181/
(3) Nguyễn Hoàng Vũ : Một lối đi riêng của Nguyễn Bình Phương
http://nld.com.vn/169477P0C1020/mot-loi-di-rieng-cua-nguyen-binh-phuong.htm
(4) http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/Van-hoc/108708/Nguyen-Binh-PhuongnbspVan-hoc-menh-mong-nhu-cuoc-song.html
(5) Thuỵ Khuê :Thế tĩnh toạ trong tác phẩm Ngồi của Nguyễn Bình Phương
http://hopluu.net/default.aspx?LangID=0&tabId=498&ArticleID=639
(6) http://www.vannghequandoi.com.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=3171&catid=10:-tieu-m-vn-ngh&Itemid=20
(7) Phạm Xuân Thạch : http://www.viet-studies.info/PXThach_doc_NBPhuong.htm
(8) Nguyễn Phước bảo Nhân : Tràng tiếng mõ trong tiểu thuyết NGỒI. http://lethieunhon.com/read.php/3442.htm
Thứ Hai, 16 tháng 8, 2010
BLOGGER VÀ NHỮNG CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT
Bùi Công Thuấn đọc văn trẻ
BLOGGER VÀ NHỮNG CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT
Tiểu thuyết Blogger của Phong Điệp. Nxb Hội Nhà Văn.2009
Blogger là một cuốn tiểu thuyết cuốn hút tôi từ đầu đến cuối và để lại những ấn tượng thật thú vị.
Tôi thường đọc tiểu thuyết không phải để thưởng thức mà để tìm kiếm những giá trị, những cái mới của văn chương, tìm kiếm cá tính sáng tạo của nhà văn. Vì thế tôi thường lật đàng sau trang văn xem nhà văn đã viết thế nào, đâu là bí mật nhà văn làm nên tác phẩm. Tôi thường bỏ qua sự cảm thụ thẩm mỹ, mà lẽ ra đó phải là mục đích chính của việc đọc văn. Cũng có căn nguyên của nó, bởi vì tôi ít gặp một tác phẩm có sức hấp dẫn đủ lôi kéo tôi vào thế giới nghệ thuật cuả tác giả, hơn nữa, cảm thụ là cảm tính chủ quan thường không giúp mình nhìn ra giá trị thật cuả tác phẩm.
Trước khi đọc Blogger, tôi bị ám ảnh bởi nhận xét cuả nhà phê bình rằng Blogger là cuốn tiểu thuyết đòi hỏi một cách đọc khác, vì Blogger có lối viết khác,” lối viết này gây mệt mỏi cho những độc giả lười nhác và tệ hơn - họ vốn chưa quen với sự thay đổi tâm thế đọc liên tục mà Phong Điệp đã dồn họ vào, như dồn vào một mê cung” và… thực sự đây lại là một thử thách nữa với người đọc” (1). Tôi tự hỏi không biết mình có đủ sức đọc tác phẩm này không, bởi tôi rất lười đọc, và tâm thế đã đông cứng với cách đọc cũ. Có nhà phê bình nhắc tới những “phân mảnh rời rạc”, văn Blogger là “văn chơi” (2), làm tôi liên tưởng đế kỹ thuật Hậu Hiện Đại, vốn là mới mẻ đối với văn chương Việt nam, khiến tôi tự hỏi xem mình sẽ tiếp cận tác phẩm này thế nào. Có thể mình sẽ thuộc về lớp độc giả lười nhác, cũ kỹ không có khả năng đọc văn trẻ chăng…Những điều như vậy bắt mình phải căng sức để đọc, để thoát khỏi cái mê cung mà tác giả sẽ dồn nén mình vào
Nhưng khi thâm nhập vào được thế giới nghệ thuật cuả Blogger, tôi thực sự bị hấp dẫn. Blogger lôi cuốn đến nỗi tôi không sao buông cuốn sách xuống được, vì câu truyện đang ở phiá trước, không thể không băng tới xem số phận các nhân vật sẽ ra sao. Hoá ra những nhận xét cuả các nhà phê bình trên kia chỉ như “ngáo ộp” hù doạ những người yếu bóng viá (xin lỗi các nhà phê bình, tôi chỉ đùa chút thôi cho hợp với kiểu comment của Blog, không dám có ý không phải với các vị). Tôi tự nghĩ, nếu Blogger khó đọc, phải mệt mỏi để đọc, thì độc giả nào còn dám mua đọc nữa. Thành ra lời tôn vinh tác phẩm của nhà phê bình lại trở thành nỗi ngán ngẩm tai hại cho nhà phát hành.Qủa thực, lúc mới vào truyện, người đọc có thể bỡ ngỡ vì không biết ai là người trần thuật. Tác giả hay nhân vật Tôi, một blogger mắt cận, tóc ngắn, 25 tuổi.Mãi tới trang 38, người đọc mới phát hiện ra người trần thuật là Phong, và câu chuyện cuả Hạ là chuyện Phong viết trên blog. Hạ cũng là blogger.(một cấu trúc kép). Người đọc còn gặp hai nhân vật NÓ và Bé Con, từ đầu đến cuối truyện không biết là ai, khiến cho Đoàn Minh Tâm nhận xét rằng :” kết cấu tiểu thuyết hơi “lỏng”, các “mối nối” chưa thật khớp tạo cho “bộ khung” tác phẩm vận hành được trơn tru.”(3). Chỗ này thì lộ ra rằng, nhà phê bình đã không đọc được mã nghệ thuật cuả Blogger.
Blogger tạo nên những chấn động rất mạnh nơi trái tim người đọc bằng một lối văn tưởng như vô cảm, khô khốc. Người đọc không thể không kinh tởm nhân vật Sếp- CON THÚ- khi nó giương móng vuốt chụp lấy CON MỒI, và con mồi không sao thoát được. Không thể không nguyền ruả và khinh bỉ nhân vật Quân, một kẻ phụ tình, “tầm thường, nhỏ nhen” đáng để Hạ nhổ nuớc bọt vào mặt (nhưng cô đã không làm thế mà chỉ bỏ đi), người trực tiếp gây ra cái chết cuả Hạ. Theo dõi nhân vật Hạ, người đọc không sao giữ cho trái tim minh không bị dồn nén đến héo hắt, thương cảm đến xót xa khi thấy tác giả bế tắc không cứu được nàng. Phải chứng kiến cái chết không lối thoát cuả Hạ, trong một thế giới vô cảm, tàn ác, giả dối bày ra đó, người đọc biết rõ mười mươi, nhưng không làm gì được để lật mặt nạ những con người THÚ, nỗi bức xúc làm ta khùng điên : muốn chửi bậy,muốn đánh nhau,muốn giết người,(tr.210), may mà còn có Quyên gào lên tiếng nói trung thực, giúp người đọc chia sẻ một chút với linh hồn kẻ phải chết oan nghiệt :”Em ơi là em.Sao phải khổ thế này hả em ? Chị đã bảo hãy để chị vạch mặt kẻ phản bội thì em không nuốn. Em chịu đựng một mình.Em chết thì thiệt thân em..Em bỏ lại mẹ già cho ai?(tr.261). Đọc thư tuyệt mệnh cuả Hạ (249) và tâm trạng người mẹ mong con (251), chắc chắn người đọc không thể cầm được nỗi uất nghẹ dâng lên, làm tim mình muốn ngưng đập. Chỉ khi đọc những dòng sau cùng cuả tác phẩm, người đọc mới tìm lại được niềm tin tưởng đã mất, trái tim trĩu nặng bi phẫn mới nhẹ được đôi chút. Vâng, không thể để cho thế giới tàn ác vùi dập con người, Hạ phải sống, “Bản năng sinh tồn thúc cô. Một con người khác trong chính cô cũng đang thôi thúc khiến cô không thể giam cầm mình trong những nỗi phiền muộn sầu não”(tr.235)
Có thể nhận thấy, thế giới nghệ thuật cuả Phong Điệp đã mang đến cho người đọc những cảm xúc mạnh mẽ, nhiều màu sắc và thôi thúc họ suy nghĩ, buộc họ phải có thái độ. Đọc Blogger, trái tim người đọc dù chai cứng đến đâu cũng không thể vô cảm trước số phận con người trong thế giới bất nhân tàn ác cuả loài THÚ. Bởi vì Phong Điệp đặt chúng ta trước những vấn đề găy gắt cuả cuộc sống đang diễn ra hôm nay.
Phong Điệp nói thế này về những vấn đề được đặt ra trong Blogger:” Biết bao nhiêu vấn đề đặt ra với một người trẻ tuổi phải trụ lại thành phố lớn: công ăn việc làm, nhà cửa, gia đình… Ai dám chắc ra trường là có việc làm ngay, việc làm phù hợp chuyên môn và sở thích? Lương kiếm đủ sống? Nếu mất việc bạn biết sống thế nào? Tiền thuê nhà lấy đâu? Người yêu phụ tình, bạn có gục ngã không? Rất nhiều rất nhiều những câu hỏi như vậy. Và anh có thấy không, những chuyện đó nếu đặt ra với nam giới đã là rất nặng nề rồi nữa là những cô gái gốc gác tỉnh lẻ yếu đuối và đơn độc. Tôi nghĩ rằng kiểu nhân vật mà tôi đề cập trong tác phẩm cũng như chủ đề câu chuyện vừa có tính phổ biến, vừa có tính cá biệt để nhà văn làm công việc của mình. “(4) Tôi nghĩ Phong Điệp viết văn nghiêm túc, không phải văn chơi. Đọc Blogger, người đọc nhân ra những suy tư, những trăn trở đau đáu về người trẻ, không hề có dấu hiệu nào rằng Phong Điệp viết Blogger để giải trí. Phong Điệp nói rõ sự chọn lưạ thái độ viết cuả mình :” tôi theo đuổi những ý tưởng sáng tạo của mình một cách rốt ráo, không hoặc ít bị tác động bởi số đông. Những tác phẩm có thể được số đông bạn đọc đón nhận, hoặc bị xếp vào loại “kén” độc giả thì tôi vẫn trung thành với quan điểm sáng tạo của mình.”(5)
Hãy dõi theo một vài vấn đề được đặt ra và giải quyết trong Blogger.
Vấn đề cuả Hạ thì khá rõ :” Từ một cô sinh viên yếu đuối, nhẹ dạ, có con ngoài giá thú, bị chối bỏ, đến lúc rơi vào một môi trường làm việc cũng lại là một “chợ giời trá hình” của những đổi chác bán mua nhân tính…- Có thể nói môi chặng đường SỐNG của nhân vật luôn là những cuộc vật lộn khốc liệt trước những cạm bẫy ngoài xã hội và ngay với chính bản thân mình: thoả hiệp hay không thoả hiệp? Và cũng chỉ có cách lựa chọn sống tiếp mà không được phép quay đầu lại.(6) Người đọc thương cho Hạ vì nàng đơn độc, yếu đuối, trong khi sức ép của môi trường sống đè nặng trên đôi vai bé nhỏ cuả nàng. Làm sao để giữ mình, làm sao để sống, làm sao để giữ được trái tim không tổ thương, giữ cho nhân cách không bị chà đạp, giữ được những giá trị làm người. Móng vuốt CON THÚ đã chụp xuống, Quân đã ruồng bỏ. Hai bà mẹ Quân và mẹ Hạ là hai gọng kềm đang xiết lại. Cuộc phỏng vấn với lão trọc đã đóng lại mọi cánh cửa cuộc đời của Hạ. Quyên không cứu đuợc Hạ. Tình yêu thương cuả mẹ không còn là cái nôi ấm áp cho trái tim đã lạnh giá của Hạ. Tác giả Phong, người kể chuyện Hạ cũng hoàn toàn bế tắc.Ở ngoài đời, trong những tình huống như thế, nhiều người trẻ đã phải đánh mất mình, họ lao vào cuộc sống thực dụng, lấy mục đích biện minh cho sự tha hoá. Phong Điệp đã chỉ ra ở entry cuối cùng :”Nó quyết định thay đổi kế hoạch. Như delete một entry”. Đó lả cách nói cuả tiểu thuyết. Hạ phải sống, phải thoát ra, không thể cam chịu. Lời cuả Quyên khóc Hạ là một chỉ dẫn.
Một vấn đề “nóng” khác cuả người trẻ hôm nay là sự tan rã cuả gia đình. Trong truyện, Phong Điệp có nói đến Hội Những Người Thích Tự Do. Đó là những phụ nữ thành đạt nhưng gia đình đổ vỡ, nguyên nhân là bị chồng phụ tình . Họ có chung một nỗi SỢ HÃI,CĂM GIẬN,KHINH BỈ,OÁN GIẬN đàn ông.(tr.112) Đàn ông làm họ chết điếng, kinh hãi, thất vọng, chán chường. Họ quyết định lựa chọn cho mình tự do. Sẽ chỉ có tự do. Không đàn ông trong thiên đường có hai chữ tự do ấy” (tr. 113). Quyên cũng là một trường hợp đổ vỡ. Quyên có hai con, chồng bồ bịch lăng nhăng, ăn chơi như phá, mấy lần định tự tử, nhưng nghĩ đến hai con, nên “ cố mà sống vậy. Sống khốn nạn kiểu gì cũng được. Miễn là có chỗ dựa cho con cái”(tr181). Quyên đã mở tiệm tóc và sống khoẻ. Quyên nói rõ quan điểm cuả mình :” Em là gái có chồng có con. Không bồ bịch nhăng nhít. Nhà có một thằng đàn ông bồ bịch là đủ tan cửa nát nhà rồi. “Khí tiết” ấy cuả Quyên khiến cánh đàn ông vị nể và càng mê mệt cô hơn “(tr182). Tình yêu, hôn nhân của Diệp cũng đổ vỡ vì vợ chồng trẻ con, chưa đủ chín chắn và bao dung để ôm giữ lấy nhau. Phong Điệp cũng Copy &paste (tr.114) một entry cuả bạn đọc về chuyện gia đình. Đó là một gia đình có hai con, đã sống hạnh phúc 15 năm. Người chồng là giảng viên một trường Đại Học lớn. Rồi người chồng ngang nhiên ngoại tình, người vợ cố gắng rất nhiều để níu giữ gia đình, đã hy sinh nhiều để chồng theo đuổi con đường sự nghiệp..nhưng chồng đã làm vợ suy kiệt. Chị đã nghĩ đến chia tay. Nhưng nếu chia tay thì thu nhập của người vợ không đủ nuôi hai con. Người vợ xin ý kiến bạn đọc.Những comment cuả bạn đọc một nửa cổ vũ sự ly hôn, một nửa chỉ rõ hậu quả nặng nề của việc ly hôn…
Có thể thấy nguyên nhân tan rã cuả gia đình trẻ hấu hết xuất phát từ người đàn ông lăng nhăng gái gú. Phong Điệp bảo vệ người phụ nữ, đồng thời bảo vệ quyền tự do của họ, cổ vũ một lối sống tự lập có nhân cách văn hoá (Quyên) , có trách nhiệm xã hội, chống lại lối sống thực dụng bệnh hoạn. Tiếng nói cuả Phong Điệp vang lên mạnh mẽ và dứt khoát. Dẫu thế nào cũng phải bảo vệ người phụ nữ , bảo vệ trẻ, hành động ly hôn cuả cha mẹ, chỉ vì sự ích kỷ cuả cá nhân mình, sẽ đẩy trẻ vào con đường hư hỏng, chúng sẽ trở thành tai ương cho xã hội. Có thể thấy, gần đây là trường hợp cuả My Sói, một nữ băng đảng mới chỉ 14 tuổi, bị cha mẹ bỏ rơi. My Sói đã gây nên những vụ án cướp của, hiếp dâm không còn tính người (7)
Vấn đề tự do trong tình yêu, tự do quan hệ tình dục trước hôn nhân cũng được Phong Điệp đề cập đến bằng một ngòi bút sâu sắc và giàu chất nhân văn. Trước hết là thái độ phản kháng của hai bà mẹ. Thái độ này là dứt khoát. Mẹ Quân nhất định không đồng ý cho Quân lấy một người như Hạ (127), mẹ Hạ thì bảo Hạ bỏ Quân (tr.131). Mẹ Hạ nói :”Tao nói thật, tình yêu từ thời sinh viên, đẹp thì có đẹp,nhưng chả mấy đôi thành đâu “(130) Mẹ Quân thì nói :”Tôi cũng không ưa những đứa con gái nhà quê cứ muốn ở lại thành phố. Thuê nhà ở một mình, biết thế nào?Đêm hôm một mình, biết thế nào ?(tr.134) . Mẹ Quân nói rằng “biết thế nào” . Đó là một đánh giá nhân cách về Hạ. Nhân cách như thế không bảo đảm được các giá trị cuả hôn nhân. Nhưng thái độ cuả Phong Điệp rõ nhất là ở việc miêu tả trạng thái Hạ và Quân sống thử. Họ dần dần mất hết hứng thú, để rồi sau cùng Quân bỏ Hạ đi lấy vợ khác. Hạ nhận đủ mọi sự khốn nạn của một cuộc tình không hôn nhân. Nỗi đau đớn tận tâm linh . Việc Hạ nạo thai, khi cái thai đã 5 tháng là một tội ác. Những cơn ác mộng sau đó làm Hạ suy kiệt. Những nỗi bi thương này chỉ một mình Hạ phải chịu. Mặc cảm tội lỗi nặng quá sức chịu đựng cuả nàng. Người đọc sẽ nhận ra thông điệp này, tình yêu, tình dục, hôn nhân và hạnh phúc là những vấn đề không tách rời nhau. Điều quan trọng là phải có đạo đức, phải có trách nhiệm, phải có chuẩn mực xã hội, người trẻ không thể sống buông thả mà có hạnh phúc được. Sự thiệt thòi bao giờ cũng thuộc về bạn gái.
Văn hoá Việt Nam coi hôn nhân là duyên là nợ ( truyện Nguyệt Lão). Vì thế, đạo vợ chồng lấy tình nghiã thuỷ chung và đức hy sinh làm trọng.”Một duyên hai nợ âu đành phận/ Năm nắng mười mưa dám quả công “(Thương Vợ-Trần Tế Xương ). Cha mẹ có vai trò quyết đinh đến số phận con cái.“Con có cha như nhà có nóc”, “đời cha ăn mặn đời con khát nước”, “Phúc đức tại mẫu”, “Con hư tại mẹ”. Vì thế cha mẹ hết sức giữ gìn để con được lớn lên và mong cho con hơn mình.”Con hơn cha là nhà có phúc” . Ai cũng biết tình yêu, tình dục tuổi trẻ chỉ tồn tại trong chốc lát, sau đó là sự nhàm chán. Nếu lứa đôi đi đến hôn nhân, họ sẽ có con, con sẽ là hạnh phúc gắn kết hai người. Phong Điệp đã nói được chân lý này ở Hạ. Khi nghe tiếng trẻ khóc và nhìn những khăn xô, tã lót bay trắng xoá ở ban công ở khu tập thể kế bên, Hạ đã ao ước cháy bỏng có được một gia đình,”có những đứa con đàng hoàng được sinh ra trong sự chờ đón của cha mẹ, ông bà “(tr171). Đó mới là hạnh phúc đích thực của tùnh yêu. Gia đình là gốc cuả xã hội. Trong đạo vợ chồng, lứa đôi lấy sự hoàn thuận, tôn trọng nhau làm nguyên tắc ứng xử .”Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn”. Nhờ thế gia đình bền vững, xã hội mới ổn định, và dân tộc này mới làm nên những kỳ công trong sự nghiệp chống ngoại xâm. Do ảnh hưởng chủ nghiã thực dụng phương Tây, chủ nghiã cá nhân vị kỷ, người trẻ đã không hiểu được chiều sâu văn hoá Việt nam về hôn nhân và gia đình. Họ yêu nhau, ngủ với nhau, sống với nhau hoàn toàn cảm tính và bản năng.Thích thì ở, không thích thì chia tay. Họ quên mất trách nhiệm xã hội và những hậu quả xã hội hết sức trầm trọng do họ gây ra. Ta hiểu vì sao hai bà mẹ của Quân và Hạ lại quyết liệt giữ những truyền thống ấy. Trong khi Quân đến với Hạ bằng tình yêu và tình dục, Hạ đã dâng hiến và chờ đợi mỏi mòn, nhưng Quân chưa bao giờ nói đến đám cưới với Hạ. Anh đến với Hạ chỉ để làm tình và coi bóng đá, sau đó bỏ Hạ như một miếng giẻ chùi chân, không tình không nghiã.
Lại nói về sex trong Blogger. Phong Điệp bộc lộ một cái nhìn xã hội rất sâu sắc về sex. Sex là cội nguồn mọi nỗi thống khổ của phụ nữ. Trước hết Quân làm tình với Hạ chỉ như một sự chiếm đoạt của con đực với con cái (tr. 71). Hạ âm thầm chịu đựng sự dày vò ấy với hy vọng sẽ đi đến hôn nhân. Nhưng kết quả là cô phạm vào tội ác giết đưá con 5 tháng tuổi của mình, sau đó chịu sự trừng phạt của lương tâm khôn nguôi. Sếp của Hạ, Phong Điệp gọi đó là CON THÚ dâm dục, với móng vuốt và sức mạnh vồ mồi , không một cô gái nào thoát được. Bao nhiêu nhục nhã, đau đớn, tan vỡ cuả Hạ là vì nó.Phong Điệp đã miêu tả được tính chất bản năng thú vật trong hành động sex của Con Thú. Nó dày đạp lên nhân cách phụ nữ và gây ra những đau thương căm uất cam chịu. Nhìn thật kỹ, Hạ chính là một nô lệ tình dục cho cả Quân và sếp. Cái chết của Hạ là một phản kháng quyết liệt, một cảnh tỉnh mạnh mẽ cho những ai còn hoang tưởng rằng tự do sex là “ca tụng thân xác”, tự do sex là giải phóng phụ nữ, coi sex là chuyện bình thường như đói thì ăn, khát thì uống và thích thì mời lên giường.
Blogger còn đụng chạm đến một vấn đề xã hội khác ở cơ quan. Blogger miêu tả sinh hoạt cuả một Viện (không rõ là Viện gì), ở đó tiêu cự đã choán hết mọi ngõ ngách cuả một cơ quan nhà nước.Tình hình tài chính không kham nổi, chuyện tranh giành điạ vị. Đoàn, Công Đoàn không còn khả năng bảo vệ nhân viên. Thủ trưởng mặc sức lộng hành, mà thủ trưởng lại là CON THÚ, chỉ chăm chăm vồ gái và đi nhà nghỉ. CON THÚ còn làm thịt cả chị tạp vụ ngay giữa ban ngày trong phòng tiếp khách bất kể đây là công sở. “Hạ chết trân trước cảnh một con đực đang thúc con cái từ phiá sau lưng. Bàn làm việc là nơi hành sự. Chị tạp vụ vùi mặt trong mớ giấy báo lộn nhộn trên bàn. Con Thú quen săn mồi để hành lạc chốn công sở- hồng hộc cất mặt lên, nhìn đám người mới vào, mắt vằn đỏ “(tr.186). Trong cơ quan này, không còn lãnh đạo, không còn tổ chức. tất cả các đoàn thể chỉ còn là cái vỏ, thờ ơ, vô cảm và hoàn toàn trở thành công cụ của ÔNG CHỦ-CON THÚ. Phải chăng hình ảnh những Ông Chủ tư bản đả bắt đầu thống trị không chì ở các công ty tư nhân mà cả trong cơ quan nhà nước ? Nếu đây là sự thực, thì chúng ta cũng như Hạ, tuyệt vọng mất thôi.
Tuy nhiên, cần lưu ý điều này. Blogger không viết để phản ánh hiện thực. Blogger là một fiction, một truyện hư cấu, giả tưởng.
Những chi tiết hiện thực chỉ là phương tiên nhà văn sáng tạo ra để chuyên chở tư tưởng. Một bước thành công của Blogger là ngòi bút Phong Điệp hướng đến thể hiện tư tưởng. Ta biết Blogger là một fiction, bởi vì tính chất giả định cuả cốt truyện. Tác giả viết về Phong, một blogger, Phong lại viết về Hạ, một blogger khác,câu chuyện cuả Hạ là một giả định cuả Phong, và những entry cuả Hạ, cả cái chết cuả Hạ cũng là một giả định. Phong Điệp nói rõ mục đích này :” Tôi muốn bạn đọc của mình không chỉ giở sách ra và làm một công việc thụ động là chờ xem nhân vật chính có làm đám cưới hay có bỏ nhau không; mà muốn họ cùng tham gia giải mã những câu chuyện, những nhân vật được bày ra trong sách”(8) Như vậy Blogger là một tác phẩm mở, đó không phải là một tác phẩm được viết theo bút pháp hiện thực. Mọi tình tiết, cấu trúc của tác phẩm hay số phận của nhân vật là để chuyển tải tư tường
Yếu tố rõ nhất cuả kiểu truyện fiction (hư cấu, giả tưởng) là cặp nhân vật Nó- bé con. Cặp nhân vật này không được khắc hoạ theo quy luật cuả hiện thực, cũng không phải là nhân vật của thế giới tâm linh như trong các tôn giáo. Cặp nhân vật này, cho đến cuối tác phẩm, cũng không được bạch hoá là ai, mặc dù người đọc mờ mờ nhận ra đó là biểu tượng hồn và xác cuả Hạ. Có một sự đấu tranh dai dẳng, quyết liệt giữa hồn và xác Hạ. Hồn thanh khiết muốn bay đi, muốn thoát ra khỏi nơi trú ngụ là cái xác của Bé con, nhưng không sao thoát được. Đó là khát vọng tự do, thánh thiện cuả Hạ. Bé con là Hạ hiện hữu trong đời thường, đang bị hoàn cảnh bóp cho tan ra thành nước mắt. Đó là SỐ PHẬN .
Số phận được miêu tả như một trải nghiệm hiện sinh, bằng những “dòng ý thức”. Số phận của Hạ là gì ? Đó là HIỆN SINH QUY TỬ (Being to the Death), sống là để đi về cái chết, như con thú trần trụi bị săn đuổi và chờ chết, cái chết không sao thoát được. Nhân vật Hạ thể hiện tư tưởng đó.Trạng thái mỏi mòn chờ đợi, trạng thái vô nghiã, trống rỗng, cái chết tạm thời (tr. 213) , tình trạng vong thân (tr.211), trở thành KẺ XA LẠ (tr. 165, 244) (9) và sau cùng là caí chết, chính là quá trình hiện sinh. Con người phải mang lấy số phận ấy, vô phương cứu chưã. Phong Điệp đã miêu tả thật xúc động, trạng thái cô độc thật đáng thương cuả Hạ (Một chốc thoáng qua1 &2). Hạ như một cái bóng không tồn tại ngay trong khi đang sống, Hạ không còn nhận thức được mình ở đâu trong cõi đời này. Cô bị xoáy vào câu hỏi “Ở đâu?/ Ở đâu?/ Ở đâu?/ Ở đâu?/ Chẳng ở đâu cả” (tr.205). Blogger đã bước vào kiểu truyện hư cấu (fiction ) kiểu truyện tư tưởng. Tất cả những biến cố cuộc đời Hạ tưởng rằng xảy ra trong hiện thực, nhưng chỉ là hư cấu để thể hiện tư tưởng. Chỉ có điều, Phong Điệp không đưa người đọc tiếp cận với một tư tưởng triết học nào, mà đưa người đọc về hiện thực : Số phận bi thương của Hạ là do sự thống trị của con đực (Sếp và Quân), do sự vô cảm cuả mọi người (Đoàn, Công Đoàn…) và do cả những thành trì đạo đức cứng nhắc (hai bà mẹ). Những entry miêu tả “dòng ý thức” trăn trở cả trong cõi tâm linh của Hạ (Ác mộng, Trống rỗng, Cái chết tạm thời…) thể hiện được tình yêu thương CON NGƯỜI sâu thẳm cuả ngòi bút Phong Điệp.
Vấn đề gây được sự chú ý của Blogger không phải là ở nội dung xã hội, mà ở sự cách tân nghệ thuật của Phong Điệp
Các nhà phê bình đã nói nhiều đến việc cách tân của Phong Điệp trong Blogger, Phong Điệp cũng coi đây là một nỗ lực chình của mình. Khi được hỏi : “- Chị kỳ vọng điều gì trong tiểu thuyết đầu tay “Blogger”?Phong Điệp trả lời :” Tôi mong muốn thay đổi thói quen thưởng thức tác phẩm văn học ở độc giả lâu nay là tâm thế chờ được ăn những món ăn đã được bày sẵn. Tôi mong muốn thay đổi cách kể truyện theo lối chương hồi hay trật tự thời gian, hay lớp lang rõ ràng mà chúng ta đã quen thuộc. Tôi mong muốn thay đổi những cách nhìn nhận khác nhau về hình thức một cuốn tiểu thuyết. Chừng ấy liệu có quá nhiều không?(10), Những thay đổi đó là gì ? Phong Điệp nói tiếp :” Blogger là một câu truyện đa tuyến, đan xen nhau – vầ nếu muốn bạn có thể chỉ theo dõi một tuyến vẫn có được một câu chuyện độc lập…Khi viết Blogger, tôi đã có ý tưởng mỗi phân đoạn dưới hình thức một entry;ở blogger – yếu tố thực ảo nhiều khi có ranh giới rất mong manh.”(11) Tuy vậy, chưa có sự thống nhất đánh giá về những kỹ thuật này cuả Phong Điệp.
Chẳng hạn việc cắt truyện thành nhiều entry, Đoàn Ánh Dương cho đó là kiểu kết cấu phân mảnh rời rạc, và Lê Anh Hoài thì cho đó là yếu tố cách tân độc đaó :” Chia cắt cuốn sách thành những tiểu đoạn rất nhỏ tưởng chừng như giúp dễ đọc nhưng thực sự đây lại là một thử thách nữa với người đọc. Bởi ở đây không đơn thuần là trò chơi ghép tranh. Có thể hình dung, một câu chuyện được cố tình kể một cách lắt léo, che dấu đoạn nọ, tình tiết kia để gây bất ngờ hoặc tạo cao trào kịch tính gì đó thì chỉ là trò chơi trên một mặt phẳng. Nhưng trò chơi trong tiểu thuyết của Phong Điệp là trò chơi không gian. Hơn nữa, đây là một không gian mở.”(12). Lê Hoài Anh còn gọi đó là cách sắp xếp ngẫu hứng. Thực ra đó không phải là những mãnh rời rạc cuả hiện thực. Cũng chẳng có gì là thử thách với người đọc, nếu không nói là trái lại (dễ đọc, dễ hiểu). Đó chỉ các kết cấu theo kiểu phim ảnh thôi. Blogger có 3 cốt truyện song song : truyện của NÓ và Bé Con, Truyện của HẠ, và truyện của Phong. Mỗi truyện được cắt thành nhiều lát, những lát này được sắp xếp xen kẽ nhau, tuỳ theo logic của cốt truyện chính. Đó chỉ là kỹ thuật dựng truyện, không phải kiểu kết cấu phân mảnh.Tuy nhiên, để tạo được sự liên kết, để độc giả không rối trí, tác giả phải làm việc này rất công phu, không thể ngẫu hứng được.
Cũng vậy, việc đưa những entry đứng độc lập, hoàn toàn không có người kể, tưởng như vô tình, rời rạc: một bản tin tai nạn xe, một bản tin rao vặt, một copy&paste : Một tình huống không giả định (tr.114), một entry vô danh “Tôi muốn giết người”…Tôi hiểu đó là kỹ thuật của dựng phim. Chẳng hạn Một bản tin rao vặt đứng độc lập một entry, thực ra entry ấy được ngầm hiểu theo kỹ thuật cận cảnh của dựng phim. Hạ đọc bản tin rao vặt để tìm việc, ống kính đã dí sát vào bản tin, tạo nên một cận cảnh, lúc đó người xem không còn thấy người đang đọc bản tin ấy là ai. Cĩng vậy, entry Copy&paste 2 là một bản tin tai nạn xe bus cán chết cô cô gái trẻ được đặt ngay sau entry “Biến cố mới”, Hạ vừa bị xe đụng, tạo ra nghi hoặc cho người đọc rằng Hạ đã chết, làm tăng độ căng của câu truyện…Vâng, đó là kỹ thuật, không phải là sự cách tân bút pháp, cũng không phải là lối viết “văn chơi”
Yếu tố tạo nên sự cách tân thực sự là Phong Điệp đem người đọc vào trong “chảo lửa” cuộc sống hiện tại. Người đọc đang ở bên cạnh nhân vật, đang tham gia vào câu chuyện của nhân vật, đang cùng bị quay cuồng, dồn nén bức xúc với nhân vật…Người đọc không còn là ngoài cuộc. Người đọc trước kia đọc truyện để giải trí. Người đọc Blogger đang đối diện với những vấn đề cuả cuộc sống xung quanh. Phong Điệp đòi buộc người đọc phải lên tiếng, phải có thái độ rõ ràng, phải bày tỏ cảm xúc cuả mình không thể vô cảm trước thực tại đang diễn ra. Để tạo ra hiệu quả này, Phong Điệp đem vào truyện những lát cắt biệt lập, đó là Chat1, Chat2, Chat 3, Copy&paste1 và comments, Rao vặt , copy&paste 2, bản tin tai nạn xe…Người đọc có cảm giác như mình đang trực tiếp ngồi trước màn hình computer, đang chat, đang đọc entry của một blog nào đó , đồng thời có thể tham gia vài chatroom với người đang chat hoặc viết comment bày tỏ thái độ của mình với tác giả viết blog. Có cả những entry tác giả đối thoại trực tiếp với người đọc (entry : Rong chơi cùng giấc mơ .tr.45). Đọc Chat1 và chat2, người đọc có cảm giác như mình đang ở trong phòng chat với tất cả những chuyện vui buồn cuả cuộc sống hôm nay. Đem người đọc vào “chảo lửa” của cuộc sống hiện thực đang xảy ra xung quanh mình là một thành công có ý nghiã cách tân trong kỹ thuật viết tiểu thuyết của Phong Điệp. Tôi nghĩ Phong Điệp đã đạt được ước vọng đổi mới cuả mình :” Tôi muốn bạn đọc của mình không chỉ giở sách ra và làm một công việc thụ động là chờ xem nhân vật chính có làm đám cưới hay có bỏ nhau không (cười); mà muốn họ cùng tham gia giải mã những câu chuyện, những nhân vật được bày ra trong sách”(đd)
Tuyến truyện của Phong và Diệp cũng được Đoàn Minh Tâm coi là mất đối xứng,chưa hợp lý : “Đọc Blogger chúng ta dễ dàng nhận thấy sự mất đối xứng trong việc triển khai giữa chuyện của Phong và chuyện của Hạ. Nhân vật trong blog được miêu tả kỹ lưỡng còn Phong, người viết nên câu chuyện được tả một cách qua loa, nhạt nhòa. Sự mất đối xứng này vô tình khiến cho ý tưởng về “cuộc đời hư mà thực, thực mà hư” ngầm ẩn trong hai nhân vật Phong và Hạ trở nên thiếu sinh động, thiếu sức thuyết phục”.Tôi không rõ Đoàn Minh Tâm đặt Blogger trên chuẩn phê bình nào để đánh giá tuyến truyện Phong và Diệp là chưa hợp lý? Chưa hợp với chân lý đời sống hiện thực hay chưa tương xứng với tuyến truyện về Hạ? Đoàn Minh Tâm không nói vậy, mà nói về sự mất đối xứng,chưa hợp lý trong miêu tả nhân vật của Phong Điệp. Phong được tả qua loa nhật nhoà không tương xứng với việc tả nhân vật Hạ . Tôi nghĩ Đoàn Minh Tâm chưa đọc ra mã truyện của tuyến nhân vật Phong.
Không cần chú ý, người đọc cũng nhận ra Phong và Diệp chính là tác giả Phong Điệp (trên web phongdiep.net, tên Phong Điệp viết là Phongdiep) . Entry Diệp (tr.139) chắc là hình bóng thời sinh viên của tác giả.Tác giả tiều thuyết hoá chính mình thành hai nhân vật để đạt hai mục đích : đem không khí sinh hoạt đời thường vào tiểu thuyết, và có cơ hội phát ngôn trực tiếp quan điểm của mình trong tác phẩm. Xin đọc đoạn đối thoại sau đây để biết quan điểm cuả Phong Điệp về cuộc sống hiện tại của các teen :
(Phong hỏi):- Thế chị cứ triền miên hai gìờ sáng mới mò về đến nhà đấy phỏng ? Đã làm chuyện gì dại dột chưa?
(Diệp trừng mắt ): - Vậy có gì mà xấu ?…Tao đủ tuổi công dân cách đây sáu năm. Tao có công việc lương thiện. Tao có quyền tự do cá nhân của tao. Và nói thật nhé, nói theo giọng của các teen ngày nay : tao muốn ngủ với ai mà chả được. Như em L. ca sĩ ấy. dám chủ động quay lại đoạn ái ân, thiên hạ chả phát sốt lên ấy. Báo chí được phen bán chạy nhé. Xong xì căng đan, em ấy vẫn xuất hiện tươi cười, hát hò, nhảy nhót ầm ĩ. Có khi ngủ thêm đượcvới vài anh nữa rồi cũng nên. Có sao đâu nào. Chuyện ấy cũng bình thường như cơm ăn nước uống thôi. Chứ càng tiêu cực với nó càng chết”(tr.39)
Tuy đoạn đối thoại được viết ở dạng cổ vũ lối sống teen , nhưng người đọc nhận ra Phong Điệp đã phê phán quyết liệt lối sống thác loạn ấy.
Một phát ngôn khác :
“*”Mỗi người có cuộc sống của mình và phải tự biết cách chịu trách nhiệm về cuộc sống ấy”.(tr.96) Điều này Phong Điệp nhắc nhở người trẻ hiện nay về ý thức sống thiếu trach nhiệm với bản thân mình và với xã hội .
Một phê phán về học Đại Học :
“…Bây giờ Đại Học toàn theo kiểu chép chỗ nọ vào chỗ kia, thầy cô chấm bài cũng là xem học trò học vẹt có tốt không, nên chịu chép cũng là tốt lắm rồi. Không ai bàn đến chuyện chép chiếc ấy cả..”(tr.140)
Có sự “lỏng lẻo” của tuyến truyện Phong -Diệp trong việc gắn kết với các tuyến khác, theo tôi, có mục đích của tác giả. Người đọc cứ coi Phong (tác giả) là một blogger nào đó ta gặp trên net, không chân dung, không lý lịch, cũng không biết từ đâu đến và biến mất lúc nào. Phong là người kể câu chuyện của Hạ, vậy thôi. Nhưng nếu không có Phong thì không có chuyện của Hạ. Phong mang không khí đời thường , thực tại cho người đọc. Khi cô bế tắc trong việc xử lý số phận nhân vật cuả mình (entry: Nhật Ký.Tr.233) thì Phong tạo ra sự bế tắc kép, khiến câu chuyện như khựng lại, bắt người đọc phải chờ đợi, rồi dự đoán, rồi phải theo dõi tiếp câu chuyện. Việc tiểu thuyết hoá tác giả thành nhân vật, tham gia vào cấu trúc truyện, theo tôi là một cách tân trong cách viết tiểu thuyết. Trước đây, tác giả thường hoá thân vào nhân vật xưng Tôi. Đời tư cá nhân, trải nghiệm của tác giả đều được thể hiện trong nhân vật Tôi. Tác giả là thượng đế tạo ra nhân vật. Tác giả áp đặt người đọc cái kết luận về số phận những nhân vật ấy. Phong Điệp mở ra trong Blogger những cánh cửa để người đọc tham dự vào sự hình thành số phận nhân vật và ý nghiã tác phẩm. Thực ra điều này không mới. E.Hemingway trong The Old Man and The Sea (ông Già và Biển Cả) đã mở cho người đọc nhiều hướng suy nghĩ về tác phẩm của mình (Tôi không có ý so sánh Phong Điệp với E.Hemingway, vì mọi so sánh đều khập khiễng ). Tuy vậy so với những tác phẩm văn chương Việt Nam hiện nay, Phong Điệp có những bước đổi mới đáng trân trọng.
Một yếu tố đặc biệt tạo nên sự hấp dẫn cuả cốt truyện là sự phát triển song song hai kỹ thuật : kỹ thuật báo trước những gì sẽ xảy ra và kỹ thuật tạo bất ngờ trong sự phát triển cốt truyện. Chẳng hạn qua trình tình yêu giữa Hạ và Quân, cuộc sống diễn ra nhàm chán, sự né tránh đi đến hôn nhân của Quân, ý kiến của hai bà mẹ, người đọc biết trước kết quả sự chia tay của họ. Cũng vậy, nhiều entry liên tiếp miêu tả con đường dẫn diến cái chết của Hạ như một tất yếu mà người đọc có thể đoán được. Nhưng bất ngờ CON THÚ vồ hụt CON MỒI ở nhà nghỉ, bất ngờ về tang lễ của Hạ chỉ là một giả định người đọc phát hiện ở entry cuối cùng thì không thể đoán được. Những bất ngờ này mang đến cho người đọc những thú vị có chiều sâu, nó tạo ra âm vang mãi trong lòng . Nó làm thay đổi sự phát triển cốt truyện, làm bật ra tư tưởng của tác phẩm, đồng thời nó đáp ứng được cái nguyện vọng âm thầm trong lòng người đọc bởi ai cũng muốn cứu lấy nhân vật Hạ . Nhưng điều thấm thiá là ngòi bút Phong Điệp toả sáng tấm lòng nhân ái đối với nhân vật của mình, cũng là đối với những cô gái trẻ bất hạnh hôm nay. Tạo được những tình huống song song, vừa tiệm tiến vừa bất ngờ như vậy , chính là khả năng sáng tạo đặc sắc của ngòi bút Phong Điệp.
Nguyên An nhận xét về văn của Phong Điệp :” Văn xuôi của Phong Điệp có lúc gây cho ta cảm tưởng là chả văn vẻ gì cả, câu thì ngắn, cụt; đoạn nọ gắn với đoạn kia như một kịch bản phim…”(đd). Nhà văn Nhã Thuyên cũng nhận xét tương tự :” Văn của Phong Điệp có phần “nghiêm nghị”, thậm chí, cách bố cục đầy “kỹ thuật” như trong tiểu thuyết Blogger dễ khiến người đọc cảm thấy mệt mỏi. “Nếu như chị bớt nghiêm trang một chút, độc giả của chị chắc chắn sẽ nhiều hơn” (13). Quả thực nếu chỉ nhìn văn Phong Điệp trên bề mặt con chữ thì nhận định của Nguyên An và Nhã Thuyên là có cơ sở. Nhưng tác phẩm văn chương là một cấu trúc hoàn chỉnh, các yếu tố cuả cấu trúc ấy liên quan và tác động qua lại lẫn nhau tạo ra những liên kết ngầm, tạo ra phần chìm của “tảng băng trôi “ những tầng ý nghiã, tư tưởng, tình cảm, thông điệp…vì thế không thể tách rời ngôn ngữ ra khỏi tác phẩm , rồi phán rằng “chả văn vẻ gì cả, … đọc cảm thấy mệt mỏi”.Tôi đã cố tìm xem bí mật câu chữ khô khốc của Phong Điệp trong Blogger là những gì mà có sức lay động, gây ấn tượng mạnh đối với người đọc?
Xin đọc một đoạn :”Diệp học giỏi, thi năm đầu đã đậu Đại Học. Chồng Diệp mải chơi, thi đi thi lại vẫn trượt. Thôi thì học thêm nghề điện tử, mở cửa hàng nho nhỏ, chọc chạch cái tivi, cái quạt cũng đủ tiền tiêu”(tr.140).
Xét cấu trúc ngữ pháp kiều câu, đoạn văn đơn điệu về cấu trúc. Câu (1) và câu (2) cùng một kiều câu đơn. Câu (3) lặp lại một loạt cấu trúc vị ngữ (học thêm / mở cửa hàng / chọc chạch ). Trong đoạn văn trên, Phong Điệp rất ít dùng loại từ biểu cảm. Giọng văn là kiểu văn nói nhát gừng tuềnh toàng (ngôn ngữ nhân vật ). Những yếu tố ấy khiến cho văn Phong Điệp không có sức tác động bằng con chữ, bằng âm nhạc của ngôn từ, bằng sức gợi những liên tưởng mở rộng.
Văn Phong Điệp khô khốc còn vì thủ pháp xây dựng các entry. Dường như không có đoạn nào miêu tả thiên nhiên, miêu tả con người gắn với thiên nhiên để làm dịu đi cái khốc liệt của thành phố. Cũng có thể Phong Điệp không sở trường ở mặt này, hoặc Phong Điệp thấy rằng không cần thiết có những đoạn miêu tả như thế, để câu chuyện càng khô khốc hơn, gay gắt hơn , quyết liệt hơn, kiệt sức hơn, thắt ngặt hơn , đòi buộc phải bứt phá, phải vùng lên hành động, phải đối mặt một mất một còn với những vấn đề trước mặt.
Nhưng nếu bỏ qua mặt con chữ mà nhìn sâu vào các liên kết văn bản, vào kỹ thuật viết “dòng ý thức”, kỹ thuật lắp ghép các entry tạo nên những tiến trình chậm chậm nhưng ngày càng thít chặt lại , chẳng hạn sự xiết chặt của CON THÚ với CON MỒI, xiết chặt SỐ PHẬN Hạ (bị Sếp dồn vào đường cùng, thất nhgiệp, bị Quân bỏ , mọi con đường đều đóng lại ).. thì hiệu quả văn chương cuả Phong Điệp đạt được rất cao. Nó tạo nên những xúc động mạnh nơi người đọc, nó nâng tác phẩm từ mức độ phản ánh hiện thực thành tác phẩm tư tưởng, nó khẳng định những thử nghiệm đổi mới cuả Phong Điệp là đúng hướng, và là hướng còn nhiều khả năng khai thác. Tôi nghĩ nghệ thuật ngôn từ cuả Phong Điệp là những giá trị đó, không ở mặt con chữ.
Một điều đáng kể đến trong những đổi mới của kỹ thuật viết tiểu thuyết cuả Phong Điệp là cấu trúc tác phẩm đa tầng. Trước đây thường có kiều cấu trúc kép, kể chuyện trong kể chuyện như trong truyện ngắn Đất cuả Anh Đức, Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành, Chiếc Thuyền Ngoài Xa cuả Nguyễn Minh Châu, hoặc kể hai tuyến song song như trong Lời Nguyền Hai Trăm Năm của Khôi Vũ, một tuyến truyện ở quá khứ trôi về hiện tại, một tuyến đang diễn ra ở hiện tại. Hai tuyến gặp nhau ở cuối tác phẩm. Phong Điệp kể 3 tuyến truyện cùng đang xảy ra, có thể đọc rời từng tuyến, nhưng cả ba tuyến hỗ trợ nhau tạo nên một thế giới phức tạp, đa thanh. Một tác giả non tay thì không thể xử lý được cùng một lúc ba tuyến truyện như thế. Chỉ tiếc rằng, hay nói cách khác, người đọc còn “thòm thèm “ rằng, các tuyến truyện NÓ và Bé Con, Phong và Diệp cần rõ ràng hơn, đầy đặn hơn, trọn vẹn hơn, kết nối hiển minh hơn, để khỏi gây “khó hiểu”, “mệt mỏi”. Tôi thì nghĩ khác, Phong Điệp cố ý như thế, cố ý dùng nhân xưng phiếm chỉ NÓ, CON THÚ, CON MỒI, không kết nối Nó-Bé con với Hạ, để tạo ra cái mà tác gỉa gọi là hư hư-thực thực, buộc người đọc phải tham gia vào câu truyện, như thế hgiệu quả đọc sẽ cao hơn.Điều quan trọng là nâng Blogger từ một tác phẩm phản ánh hiện thực, lên kiểu tác phẩm tư tưởng.
Nếu phải chỉ ra những hạn chế cuả Blogger, tôi sẽ nói gì ?
Trước hết Phong Điệp dùng nhiều từ cuả ngôn ngữ Bắc Bộ, có thể sẽ xa lạ với bạn đọc phiá Nam, chẳng hạn: “Nó mở miệng là chê bôi là cà tẩm cà tịch”.(tr.126) , “ Hạ ngẩn tò te.. Ừ thì cứ cho là cô đểnh đoảng làm vỡ bát…”(tr.128).”Thôi anh về đây không bà già lại nhảy chồ chồ lên “(tr.132). Có chỗ dùng đại từ nhân xưng không thống nhất “Chào chị, em cảm thấy trong câu chuyện của chị có chút mâu thuẫn chị vẫn rất yêu chồng và con mặc dù rất thiệt thòi cho chị nhưng theo tôi chị có thể chịu đựng được thì hãy cố gắng…(tr.123) (có thể nhân vật viết sai như thế, không phải tác giả, nhưng đọc rất khó chịu).
Có một hình tượng mà Phong Điệp cần hoàn chỉnh hơn, đó là hình tượng NÓ – Bé Con . Nếu Phong Điệp dụng công hơn, đó sẽ là một hình tượng tư tưởng độc đáo. Mâu thuẫn thân xác và linh hồn đã được Lưu Quang Vũ giải quyết khá tốt trong Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt. Mâu thuẫn giữa khát vọng tự do, thanh khiết của Hạ và thực tiễn trói buộc chưa được khai thác thuyết phục, cuối cùng Nó trôi đi vô nghiã khi Hạ chết. Điều này là dở dang. Nó lộ ra sự bế tắc cuả Phong Điệp khi tìm cách xử lý cho hình tượng này, góp phần tạo nên bế tắc chung của tác phẩm. Tất cả những vấn đề Phong Điệp đặt ra đều chưa được giải quyết bằng những giải pháp tích cự. CON THÚ vẫn còn đó và sẽ tiếp tục vồ bao nhiêu CON MỒI nữa, sẽ đẩy bao cô gái vào cái chết thảm khốc nưã, trong khi Công Đoàn, Đoàn Thanh Niên vô cảm ? Blogger chưa đưa ra được giải pháp nào cho sự đổ vỡ trong các gia đình trẻ hiện nay . Hạ quyết định thay đổi kế hoạch, người đọc chưa biết là kế hoạch gì khi tác phẩm kết thúc… Tất nhiên không thể đòi hỏi nhà văn phải đề ra những giải pháp để giải quyết những vấn đề xã hội, đó là trách nhiệm cuả các nhà chính trị, nhà kinh tế , cuả toàn xã hội.Dù sao người đọc cũng muốn tác giả đem đến cho họ một niềm tin, một hy vọng, một xác quyết nào đó rằng, phải cứu lấy những cô gái như Hạ, phải cứu lấy sự đổ vỡ gia đình trong các gia đình trẻ hôm nay và những CON THÚ phải bị tiêu diệt, có vậy nó mới không thể gây ra tội ác cho người lương thiện.
Về kỹ thuật thể hiện. Có những entry Phong Điệp viết thật hay, như Ác Mông, Mẹ Chồng Hờ, Một Cuộc Phỏng Vấn,Tang Lễ, nhưng cũng có những entry người đọc khó nhận ra nhân vật phiếm chỉ là ai, chẳng hạn nhân vật TỚ trong Entry Cho H.người đọc không lần ra TỚ tương quan thế nào với Hạ. Vì TỚ chỉ xuất hiện một lần duy nhất , trước và sau entry này không có tín hiệu nào giúp người đọc tìm ra manh mối của TỚ. Cũng vậy, đại từ phiếm chỉ NÓ ở entry cuối cùng có thể bị nhầm với Nó-Bé con. Mặc dù cả hai là một, nhưng Nó-Bé con là linh hồn đã thoát xác, chỉ còn lại Nó là Hạ, một blogger vừa phản tỉnh .
Có thể nói Phong Điệp đã đạt được những bước cách tân đáng trân trọng trong kỹ thuật viết tiểu thuyết, làm mới hẳn diện mạo của tiểu thuyết Việt Nam hôm nay. Cách viết này mở ra nhiều hướng khai thác và phát triển của ngòi bút Phong Điệp sau này. Điều đáng quý là qua Blogger, Phong Điệp thể hiện trách nhiệm của người cầm bút, trách nhiệm góp tiếng nói vào những vấn đề cấp thiết của cuộc sống người trẻ hôm nay, và qua đó bộc lộ một tấm lòng yêu thương thiết tha đối với họ. Cũng qua Blogger, người đọc có quyền hy vọng vào tài năng văn chương của Phong Điệp. Nhà văn đã bước đầu đặt chân vào kiểu tiểu thuyết hư cấu (fiction), bước đầu xây dựng tác phẩm của mình thành kiểu tác phẩm tư tưởng, đã thể nghiệm thành công nhiều kiểu bút pháp, đồng thời thể hiện một năng lực sáng tạo có cá tính. Chúc Phong Điệp mạnh dạn hơn trên con đường đổi mới và thực sự dấn thân trong thiên chức của một nhà văn , một người lương thiện (14) như Phong Điệp hằng mong muốn
Tháng 8 / 2010
_________________________________________________________
(1) LÊ ANH HOÀI : Blogger – cuốn tiểu thuyết đòi hỏi một cách đọc khác. default.asp?action=article&ID=7922
(2) ĐOÀN ÁNH DƯƠNG : khi người viết trẻ viết văn chơi
default.asp?action=article&ID=7928
(3) ĐOÀN MINH TÂM . default.asp?action=article&ID=7979
(4) Phong Điệp trả lời Lê Anh Hoài: default.asp?action=article&ID=7419
(5) Phong điệp: default.asp?action=article&ID=8033
(6) default.asp?action=article&ID=6873
(7) My 'sói' và những thủ đoạn táo tợn bắt teen bán dâm. http://www.zing.vn/news/hinh-su/my-soi-va-nhung-thu-doan-tao-ton-bat-teen-ban-dam/a89880.html
(8) Phong điệp trả lời Lê Anh Hoài: default.asp?action=article&ID=7419
(9) Blogger gợi ra L’étranger (Kẻ Xa Lạ ) cuả A. Camus
(10) default.asp?action=article&ID=8033
(11) default.asp?action=article&ID=6924:
(12) default.asp?action=article&ID=7922
(13) HOÀNG ĐẠT, DẤU ẤN PHONG ĐIỆP, default.asp?action=article&ID=8233:
(14) NGUYỄN QUỲNH TRANG : Tôi là một người lương thiện. default.asp?action=article&ID=3597
Thứ Sáu, 6 tháng 8, 2010
CHÚC MỪNG BCH HỘI NHÀ VĂN VN NHIỆM KỲ 2010-2015
CHÚC MỪNG BAN CHẤP HÀNH HỘI NHÀ VĂN NHIỆM KỲ 2010-2015
Thứ sáu, 06/08/2010 19:11 pm
NGÀY 06.08.2010
KẾT QUẢ BẦU PHIỀU:
Tổng số phiếu: 667
Số phiếu hợp lệ : 666
1. Hữu Thỉnh: 618
2. Nguyễn Trí Huân:574
3. Nguyễn Quang Thiều: 509
4. Trung Trung Đỉnh: 506
5. Lê Quang Trang: 490
6. Khuất Quang Thuỵ: 455
7. Nguyễn Thị Thu Huệ: 440
8. Trần Đức Tiến: 434
9. Đào Thắng: 424
10. Võ Thị Xuân Hà: 414
11. Đình Kính: 399
12. Vũ Hồng: 390
13. Nguyễn Hoa: 372
14. Văn Công Hùng: 371
15. Phan Trọng Thưởng: 354
16. Linh Nga Niek Đam: 353
17. Đinh Quang Tốn: 335
18. Dương Thuấn: 322
Có 17/ 18 nhà văn đã đạt số phiếu quá bán.
BAN CHẤP HÀNH MỚI :
Chủ tịch: Hữu Thỉnh
Phó chủ tịch:
Nguyễn Trí Huân
Lê Quang Trang
Nguyễn Quang Thiều
Ban Thường vụ:
Hữu Thỉnh
Nguyễn Trí Huân
Lê Quang Trang
Nguyễn Quang Thiều
Nguyễn Thị Thu Huệ
Trưởng ban kiểm tra: Khuất Quang Thụy
Cuối tháng 9 phiên họp thứ hai của BCH sẽ diễn ra để tiếp tục triển khai các công việc cụ thể.
Thứ Tư, 4 tháng 8, 2010
CHÀO MỪNG ĐẠI HỘI NHÀ VĂN VN LẦN THỨ 8 (2010)
CHÀO MỪNG ĐẠI HỘI NHÀ VĂN LẦN THỨ 8 ( 04/08/2010)
Wednesday, 4. August 2010, 22:25:14
bản tin
VÀI THÔNG TIN VỀ ĐẠI HỘI NHÀ VĂN LẦN THỨ 8 ( ngày 04/08/2010)
Hơn 900 nhà văn dự đại hội, 349 người được đề cử vào BCH Hội Nhà văn khóa VIII,28 nhà văn được đề cử làm Chủ tịch Hội Nhà văn
Theo báo cáo của Hội Nhà văn VN, trong 5 năm qua, toàn thể hội viên đã cho xuất bản 1.875 tác phẩm, trong đó có 942 tác phẩm văn xuôi, 611 tác phẩm thơ, 83 tác phẩm văn học dịch, 239 tác phẩm lý luận, phê bình. Từ năm 2005-2010, Hội Nhà văn đã được Nhà Nước cấp 86,6 tỉ đồng, trong đó có 14,7 tỉ đồng tài trợ sáng tạo, hơn 5 tỉ đồng tài trợ tác phẩm chất lượng cao cho 235 nhà văn, hơn 4,2 tỉ đồng tài trợ công bố tác phẩm cho 802 lượt nhà văn...
Nhiệm kỳ qua có thêm 5 nhà văn được Giải thưởng Đông Nam Á, 13 nhà văn được Giải thưởng Sông Mekong, 1 nhà văn được Giải thưởng Hồ Chí Minh, 49 nhà văn được Giải thưởng Nhà nước. Năm năm qua đã kết nạp thêm 169 hội viên, nâng tổng số hội viên hiện nay là 923 người. Tổng số hồ sơ xin gia nhập Hội còn tồn đến nay là 546 người (có cộng luôn số hồ sơ tồn đọng từ các khóa trước).
Đã xây dựng được trụ sở Hội - số 9 - Nguyễn Đình Chiểu; sửa chữa nâng cấp trụ sở Nhà xuất bản, tạp chí Nhà Văn, Trung tâm bản quyền tại số 65 - Nguyễn Du; xây dựng được trụ sở mới của báo Văn Nghệ ở 17 - Trần Quốc Toản; xây dựng được Trung tâm Văn hóa tại Quảng Bá. Bảo tàng Văn học Việt Nam sẽ khánh thành vào cuối năm nay.
Hội nhà văn Việt Nam được nhận Huân chương Sao Vàng vào năm 2007.
Trước khi đại hội toàn thể Hội Nhà Văn, chiều ngày 4/8/2010 đã có Đại Hội Các Nhà Văn Đảng Viên.Ông Phùng Hữu Phú, Phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương đã phát biểu chỉ đạo đại hội.Theo ông Phùng Hữu Phú thì đại hội nhà văn lần thứ VIII được lãnh đạo Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Đã có một Ban chỉ đạo đại hội được thành lập.
Chủ đề của đại hội là Vì sự cường thịnh của đất nước, vì phẩm giá con người thể hiện trách nhiệm và sự đồng điệu của giới cầm bút với đất nước và dân tộc. Vì phẩm giá con người không chỉ là thiên chức của nhà văn mà còn là những vấn đề căn bản, bức xúc của xã hội hiện nay.
Mỗi nhà văn dự ĐH được tặng quà: Quà gồm một cái cặp hiệu LEPRO của Công ty TNHH sản xuất và kinh doanh thương mại Thành Phát. Cái cặp sau này có thể dùng đựng Laptop được (Hội nhà văn sẽ cho), tiện lợi đôi bề. Bên cạnh đó là một huy hiệu Đại hội.
Trong cặp gồm một quyển kỷ yếu "Nhà văn Việt Nam hiện đại" (in lần thứ 4) mới lấy từ nhà in về; một tập tài liệu về Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VIII; một tập Bảng kê tác phẩm đã in của các nhà văn hội viên trong nhiệm kỳ VII; một quyển Sổ tay Đại hội và một cây viết bi hiệu AIHAO.
Tài liệu về ĐH gồm có :
Trình tự như sau:
- Chương trình Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VIII.
- Mục lục các văn kiện có liên quan.
PHẦN THỨ 1
- Chỉ thị của Ban bí thư về Đại hội các Hội văn học nghệ thuật Trung ương và Ủy ban toàn quốc liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam (ngày 9.3.2009).
- Hướng dẫn thực hiện Chỉ thị của Ban bí thư về Đại hội các Hội văn học nghệ thuật chuyên ngành Trung ương và Ủy ban toàn quốc liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam (ngày 18.3.2009).
- Quyết định về việc thành lập Ban chỉ đạo Đại hội các Hội văn học nghệ thuật Trung ương năm 2009-2010 (ngày 9.3.2009).
- Thông báo ý kiến của Ban chỉ đạo Đại hội các Hội văn học nghệ thuật Trung ương về Đại hội VIII Hội nhà văn Việt Nam (ngày 8.7.2010)
- Công văn của Văn phòng Trung ương Đảng về Đại hội VIII Hội nhà văn Việt Nam (ngày 28.5.2010)
- Quy định về tiêu chuẩn, cơ chế lựa chọn, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật (ngày 5.2.2010)
- Công văn của Bộ nội vụ về việc tổ chức Đại hội VIII Hội nhà văn Việt Nam (ngày 30.7.2010)
PHẦN THỨ 2
- Quyết định của BCH Hội nhà văn Việt Nam về việc thành lập Ban tổ chức Đại hội toàn thể Hội nhà văn Việt Nam lần thứ VIII (2010-2015) (ngày 6.7.2010).
- Quy chế Đại hội toàn quốc Hội nhà văn Việt Nam lần thứ VIII (Dự thảo) (ngày 3.8.2010).
- Quy chế bầu cử BCH khóa VIII Hội nhà văn Việt Nam nhiệm kỳ 2010-2015 (ngày 3.8.2010).
- Quy chế điều hành của Đoàn chủ tịch (ngày 3.8.2010).
VÌ SỰ CƯỜNG THỊNH CỦA ĐẤT NƯỚC, VÌ PHẨM GIÁ CON NGƯỜI
(Báo cáo kiểm điểm nhiệm kỳ 2005-2010 và phương hướng nhiệm vụ phát triển văn học nhiệm kỳ 2010-2015)
- Báo cáo kết quả tổ chức Đại hội cơ sở (ngày 2.7.2010)
- Báo cáo một số vấn đề bổ sung, sửa đổi Điều lệ Hội nhà văn Việt Nam.
- Bản kiểm điểm của BCH Hội nhà văn Việt Nam khóa VII (2005-2010)
- Báo cáo công tác tài chính nhiệm kỳ VII (2005-2010)
- Báo cáo hoạt động đối ngoại nhiệm kỳ 2005-2010.
PHẦN THỨ 3
- Danh sách hội viên Hội nhà văn Việt Nam ở tất cả các khu vực trong cả nước và khối các cơ quan...
- Và các văn bản có liên quan khác.
Bùi Công Thuấn có vài nhận xét:
Đại Hội có hai nhiệm vụ : Bầu BCH mới và sửa đổi điều lệ Hội nhà văn
Trước ĐH nhiều nhà văn đã lên tiếng. Vị nào cũng cũng có những phát ngôn "có tầm vóc quốc tế và thời đại", đa số là đòi hỏi Hội Nhà Văn phải thế này, thế kia, thực ra là các vị ấy che dấu những bức xúc và tham vọng cuả cá nhân.
Bởi vì ai cũng biết sáng tác là việc cuả cá nhân. Hội chẳng làm gì được. Cứ nhìn vào số tiền đầu tư cho tác phẩm thì rõ. Đầu tư nhiều nhưng trong 5 năm qua Hội NV có được bao nhiêu tác phẩm giá trị ?
Dự ĐH , với số đông ứng cử như thế thì làm sao bầu đươc một BCH hợp lòng Hội viên. Trướng khi ĐH toàn thể, đã có ĐH cuả nhà văn Đảng viên quán triệt ý kiến chỉ đạo ĐH, và Trước khi bầu phiếu và biểu quyết các văn kiện cuả ĐH, các hội viên đã có ý kiến chỉ đạo cuả Ban Chỉ Đạo ĐH rồi, vì thế vai trò cuả cá nhân từng nhà văn chỉ là thực hiện ý kiến chỉ đạo mà thôi.
Đa số Hội viên đã trên 60 tuổi, sức sáng tạo đã cạn kiệt,Hội Nhà Văn VN đang già nua đi. Dù có 10 ĐH như thế này cũng chẳng đem đến cho Văn chương VN điều mà nhân dân mong đợi
Dù sao các nhà văn có dịp gặp nhau cũng là vui rồi.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)