album của BCT

album của BCT
một vài hình ảnh chia sẻ với bạn đọc

Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 31 tháng 12, 2012

CÂU CHUYỆN PHÊ BÌNH-CHÀO NĂM MỚI 2013

CÂU CHUYỆN PHÊ BÌNH VĂN CHƯƠNG
Bùi công Thuấn

Năn 2012 đã trôi vào vĩnh cửu. Mọi chuyện đã trở thành dĩ vãng. Nhìn lại câu chuyện phê bình năm qua trong tâm thế đón chào mùa xuân mới đang về, cái nhìn của chúng ta có thể sẽ trong sáng hơn, bao dung hơn và lạc quan hơn, và biết đâu chúng ta học được điều gì đó từ năm cũ.

CHUYỆN ĐÌNH ĐÁM NĂM NHÂM THÌN

Chuyện đình đám nhất là hội thảo “Hoàng Quang Thuận với Non thiêng Yên Tử” do Tạp chí Nhà Văn (Hội Nhà văn Việt Nam) tổ chức. Đến dự hội thảo có đông đảo các cấp đạo của Hội Nhà Văn và Hội đồng Lý Luận phê bình VHNT trung ương. Một cuộc hội thảo thật “hoành tráng” về một hiện tượng “thơ thần”, có thể đề cử giải Nobel văn chương. Có đến mấy chục tham luận của các bậc khoa bảng. Không ngờ dư luận phản đối kịch liệt. Nguyễn Minh Tâm đưa chứng cớ đối chiếu kết luận Hoàng Quang Thuận sao chép nguyên văn cuốn “Chùa Yên Tử, Lịch Sử - Truyền Thuyết Di Tich và Danh Thắng” của tác giả Trần Trương. Thế là mọi sự đã rõ. Thường trực BCH Hội Nhà Văn đã phải họp rút kinh nghiệm về chuyện này (1). Thực ra có thể thông cảm, bởi vì nếu chỉ đọc những bài thơ của Hoàng Quang Thuận mà không đối chiếu với“Chùa Yên Tử, Lịch Sử - Truyền Thuyết Di Tich và Danh Thắng” thì người ta rất dễ ngộ nhận. Thế nhưng trong chuyện này, người ta đã dùng lý luận và phê bình văn học cho những mục đích ngoài văn học, và tạo thêm tình trạng “loạn” trong phê bình văn học hiện nay.

Trái ngược với sự ồn ào trên là tình trạng yên ắng đáng ngạc nhiên ở những tháng cuối năm, khi hầu như các trang mạng văn chương, nơi diễn ra những tranh luận văn chương nảy lửa, bị hacker đánh sập. Trang web lethieunhon.com, bị đánh sập hoàn toàn. Khi nương nhờ vào Google, thì trang web này không còn là diễn đàn nóng nữa. Trang web của nhà văn Trần Nhương, trannhuong.com, bị đánh sập nhiều lần, mãi mới khôi phục được, cũng không giữ được độ nóng thời sự văn học trước đó. Có lẽ mọi người đã ngộ ra rằng, web hay blog văn chương trên net chỉ là trò chơi, một cuộc chơi, còn đấy, mất đấy, chẳng có gì bảo đảm cho một sự nghiệp lâu dài. Và người ta có thể “xóa xổ” anh được bất cứ lúc nào. Yahoo công bố đóng cửa blog của họ và 17.1.2013. Không biết có bao nhiêu người chơi blog kêu trời về việc này. Vâng, đành vậy. Khi cuộc chơi không còn có lời thì người ta đóng cửa thôi. Văn chương là cuộc chơi.

Nhất là cuộc chơi của người trẻ và của người có tiền. Bởi thế năm con rồng không còn ồn ào những thơ trẻ, văn trẻ như những năm 2005. Lúc ấy trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng. Người viết văn làm thơ trẻ đua nhau phát ngôn gây sốc. Nhưng đến nay còn lại những ai, và còn ai tiếp tục khám phá sáng tạo?hay những người trẻ đã lặp lại mình và trở thành già? Ngay như Nguyễn Ngọc Tư, cuốn sách mới nhất của cô, tiểu thuyết đầu tay Sông, cũng không gây được tiếng vang nào ngoài những lời quảng cáo. Có người còn tổ chức những buổi phát hành sách rầm rộ, cả ngoài Bắc trong Nam, nhưng sách thì chìm vào im ắng. Nguyễn Huy Thiệp với Vong Bướm cũng không còn là Nguyễn Huy Thiệp được vồ vập cách đây hơn 20 năm nữa.

CÁNH CỬA HẸP

Người ta hay nói phê bình văn chương không theo kịp sáng tác văn chương. Nhận thức này hàm chứa những điều gì? Phải chăng cứ mỗi cuốn sách văn học được in ra thì nhà phê bình phải bám lấy ngay để viết bài phê bình? Điều này là không tưởng, bởi số tác giả của Hội Nhà Văn có hàng ngàn, mà số nhà phê bình chuyên nghiệp chỉ đếm trên đầu ngón tay, thì dù có muốn cũng không thể làm được. Như thế mãi mãi phê bình đi sau sáng tác. Vấn đề là những cuốn sách được in ra đó có gì đáng đọc hay không? Hay chỉ mất thì giờ của người đọc? Bởi ngay cả sách của những tác giả đã có nghề, chưa hẳn đã hấp dẫn nhà phê bình, nếu cuốn sách ấy không mới.

“phê bình văn chương không theo kịp sáng tác văn chương” có phải là do nhà văn Việt Nam quá tiên phong, quá mới về tư tưởng nghệ thuật, tác phẩm văn chương VN quá sâu sắc về tư tưởng và mới mẻ về phương thức thể hiện, khiến cho nhà phê bình không đủ tầm để đọc? giống như tình trạng phê bình văn chương ở VN đối văn học Hậu Hiện Đại thế giới chăng? Điều này còn lâu lắm văn chương VN mới đạt đến. Văn chương VN không có tư tưởng, nhà văn VN không tự sáng tạo ra bất cứ một trường phái nghệ thuật nào (ngoại trừ bắt chước học theo những trào lưu nước ngoài). Những cái gọi là thơ Trình Diễn, nghệ thuật Sắp Đặt, chủ nghĩa Siêu Thực, chủ nghĩa Hiện Sinh,Thơ Tân Hình Thức, Thơ Hậu Hiện Đại ở VN thời gian vừa qua… chỉ là bắt chước sống sượng của văn chương nghệ thuật nước ngoài, chưa để lại được tác phẩm nào có giá trị đóng đinh vào tiến trình phát triển của văn học VN. Điều này không thể nói “phê bình văn chương không theo kịp sáng tác văn chương”.

Phê bình văn chương đang ở đâu mà văn đàn im ắng thế? Câu trả lời là ngôi nhà văn chương hiện nay chỉ dành cánh cửa hẹp cho nhà phê bình. Thậm chí nhiều nhà phê bình đã gác bút.

Khi nhà văn hướng về thị trường, hướng về mục đích giải trí, thì tác phẩm của họ, dù có được công chúng cổ vũ, cũng không phải là mối bận tâm của nhà phê bình. Những bài viết nhằm PR cho cuốn sách đã được các nhà xuất bản thực hiện rồi. Vì thế ta không lạ tại sao văn chương trẻ không trưởng thành được, vì nhiểu người coi văn chương là cuộc chơi, viết chơi vậy thôi. Người đọc cũng chỉ đọc để tìm vui, tìm cái lạ, tìm cái thỏa mãn cái tôi. Văn chương ấy không nằm trong sự kiếm tìm của nhà phê bình.

Ở một sân chơi khác, sân chơi Câu Lạc Bộ sáng tác văn chương, tác phẩm được viết ra nhằm mục đích chia sẻ, trao đổi, và để thù tạc (thí dụ, câu lạc bộ Người Cao Tuổi, Câu lạc bộ Thơ Đường, Câu lạc bộ Thơ Lục Bát, Câu lạc bộ Cựu Chiến Binh…). Ở đây, vui là chính. Không phải là nơi ươm mầm những tài năng. (Tôi không có ý nói thơ văn câu lạc bộ không hay và ở CLB không có nhân tài). Mỗi khi sinh hoạt CLB, tác giả đọc tác phẩm lên, mọi người khen hay và vỗ tay, không cần biết bài thơ có hay thực không, miễn là không khí sôi nổi, hội viên sống vui sống khỏe . Phải nhận rõ điều này, các CLB là phong trào quần chúng làm văn nghệ, phục vụ cho nhiệm vụ chính trị của địa phương. Ở môi trường này, nhà phê bình xin chớ “phê”, sẽ làm mất lòng mọi người đấy. Vâng, nhà phê bình cứ vỗ tay cổ vũ theo mọi người. Và nếu được hỏi, thì cứ khen hay, hay lắm, ấn tượng lắm, tình nghĩa lắm, tính tư tưởng chính trị rất cao…

Lại một sân chơi khác là các giải thưởng văn học, cấp tỉnh, cấp khu vực, hay của Hội Nhà Văn. Các cuộc thi này đều có một ban giám khảo gồm những nhà văn, nhà phê bình có uy tín làm công việc thẩm định. Họ căn cứ vào tiêu chí cụ thể để thẩm định, và giải thưởng nào cũng có những mục đích riêng. Khi giải đã được công bố và trao cho người nhận giải, thì nhà phê bình có lên tiếng cũng chỉ là người đứng ngoài. Kết luận của Hội Đồng Thẩm định của giải, nhất định là kết luận đúng về giá trị tác phẩm được trao giải, và tổ chức trao giải có quyền của mình. Người ta có ồn ào về Hội Thề, về Dị Hương hay về kết quả giải của Đồng Bằng Sông Cửu Long, cũng chỉ là để cho có không khí dân chủ và quảng bá cho tác phẩm đạt giải mà thôi. Ngay cả giải Nobel văn chương người ta còn tranh cãi, huống gì một giải quốc gia. Vâng , nhà phê bình độc lập không có chỗ đứng trong sân chơi này.

Còn lại mảnh đất nào cho nhà phê bình ? Tất nhiên là còn khu vực những nhà văn thực sự sáng tạo, những người viết chỉ vì cuộc đời và vì nghệ thuật, những ngòi bút không ngừng tìm tòi những cách viết mới, không ngừng suy tư về những vấn đề của lịch sử và của thời đại. Ở những nhà văn này, viết là một thôi thúc bẩm sinh, một năng lực trời cho. Sức làm việc, sức sáng tạo thật đáng kính nể. Xin đơn cử, nhà văn Tô Hoài, Nguyễn Xuân Khánh (tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội Gạo Lên Chùa), Hoàng Quốc Hải (hai bộ tiểu thuyết lịch sử “Tám triều vua Lý” và “Bão táp triều Trần”), Bùi Ngọc Tấn, …Tác phẩm của những nhà văn này, là mảnh đất màu mỡ cho nhà phê bình mặc sức khám phá. Và không phải nhà phê bình nào cũng theo kịp nhà văn để chia sẻ. Để phê bình được Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Xuân Khánh, Tô Hoài, nhà phê bình ít nhất phải có kiến thức lịch sử, văn hóa sánh ngang với nhà văn.

Hoàng Quốc Hải đã viết bộ Nhà Trần 15 năm, bộ nhà Lý 20 năm, với bao nhiêu công sức đi tìm tư liệu. Ông kể :” … việc tìm kiếm tư liệu, trước hết phải dần khai thác các truyện dân gian. Truyện dân gian là sử ngôn vô cùng phong phú. Và nguồn nữa là các gia phả, tộc phả, thần phả, các hoành phi, câu đối trong các đình, đền, chùa cũng nói lên nhiều điều cần thiết. Các bi ký, các kiến trúc còn rơi sót lại và cả các khai quật về khảo cổ cũng là những tư liệu quý. Một mảng quan trọng khác là tham khảo lịch sử nhà Tống đối chiếu các triều đại tương ứng của hai bên. Ngoài lịch sử còn các ký, truyện của các viên quan nhà Tống từng đi sứ Đại Việt có ghi chép lại, cả những viên bại tướng, từng xâm lược nước ta đôi khi cũng để lại các ghi chép. Lại nữa, Viện Viễn Đông Bác cổ của người Pháp cũng nghiên cứu và sưu tầm rất nhiều tư liệu, để lại cho ta một khối lượng khá lớn”. Ông còn phải đi điền dã:” Lịch sử các thời đại Lý - Trần thường xảy ra các cuộc giao tranh hoặc chiến tranh giữa nước ta với nước Champa, nước Tống, nước Nguyên. Nhiều trận có quy mô khá lớn, chiến trường trải rộng và rất ác liệt. Muốn dựng lại được một cách khả dĩ trung thực, người viết không thể không đi khảo sát thực địa, kể cả khảo sát về văn hóa, phong tục của miền đất ấy, dân tộc ấy. Vì vậy tôi phải đi lại nhiều lần các vùng đất có liên quan, kể cả vùng đất cũ của Champa và một số vùng có liên hệ trên đất Trung Hoa…”(2). Liệu có nhà phê bình nào theo chân được nhà văn trong quá trình khám phá sáng tạo ấy?

CHỜ MỘT MÙA THU HOẠCH MỚI

Viết làng nhàng, phê bình cũ kỹ đang là một thực trạng của văn chương VN. Nhiều người cầm bút viết theo quán tính bắt chước, có khi sự bắt chước không có ý thức, nhưng đã trở thành một tiềm năng. Làm thơ cổ điền thì cứ Đường luật, với luật bằng trắc, niêm, đối, gieo vần, dựa theo khuôn mẫu của Nguyễn Khuyến, Bà Huyện Thanh Quan hay Đồ Chiểu. Làm thơ trào phúng thì đã có khuôn mẫu Trần Tế Xương, và bây giờ là Bút Tre . Làm thơ trữ tình thì cứ thơ 7 chữ, 8 chữ kiểu thi pháp thơ Thơ Mới 30-45. Làm thơ kể người kể việc thì cứ theo kiểu thơ Tố Hữu, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật; thơ suy tư thì theo kiểu Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên…Những bài thơ như thế rất chuẩn về niêm luật, ý tứ, không chê vào đâu được, nhưng không đọng lại được gì. Cũng thật khó tìm được những truyện ngắn ấn tượng như truyện của Nguyễn Tuân, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Minh Châu. Văn chương thiếu vắng sự khám phá, sáng tạo, thiếu cá tính, và thiếu tài năng.

Nói phê bình tức là đọc và đánh giá tác phẩm văn chương. Kết quả đánh giá tùy vào năng lực của người đọc và phương pháp giải mã tác phẩm. Hầu như vẫn tồn tại một cách đọc áp đặt theo khuôn mẫu chính trị. Tức là xem tác phẩm phản ánh hiện thực gì, phản ánh thế nào, và thái độ phản ánh của tác giả. Qua đó đánh giá thái độ chính trị của tác giả, việc đánh giá hoàn toàn chủ quan, cảm tính. Tác phẩm văn chương chỉ còn là cái chứng cớ để xem xét ý thức chính trị của tác giả. Phê bình như thế là giết chết văn chương.

Đành rằng con người nhận thức thế giới xung quanh bằng giác quan cảm tính. Bởi con người có 5 giác quan cùng với trực giác, mở ra thế giới bên ngoài đón nhận thông tin. Cho nên cùng là hiện thực 1930-1945, thì Nguyễn Công Hoan chỉ khai thác cái hài kịch, còn Nam Cao lại thành công khi viết về cái bi kịch, và Thơ Mới thì bay bổng khỏi mặt đất để “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”. Nghệ thuật là cảm tính, và thưởng thức nghệ thuật cũng là cảm tính.

Nhưng phê bình không được cảm tính, muốn tìm ra giá trị văn chương, nhà phê bình cần sử dụng những phương pháp phê bình khoa học. Chủ nghĩa cấu trúc đã chỉ ra nghĩa của tác phẩm là nghĩa của cấu trúc, không phải nghĩa của tác giả hay người đọc áp đặt vào tác phẩm. Tác phẩm là một cấu trúc ngôn ngữ, mà ngôn ngữ lại là một cấu trúc, chính cấu trúc mới tạo nghĩa. Nói cách khác, bằng cấu trúc tự thân, tác phẩm có ý nghĩa riêng của nó. Nhà phê bình cần đọc đúng thông điệp này của cấu trúc văn bản.
Xin đọc truyện này của Kafka:

Người canh gác

Tôi chạy qua người canh gác thứ nhất. Thế rồi sợ hãi, tôi chạy ngược trở lại và nói với người canh gác: “Tôi đã chạy qua đây lúc ông đang nhìn đi chỗ khác”. Người canh gác nhìn chằm chằm về phía trước chẳng nói năng gì. “Tôi nghĩ đúng ra mình không nên làm như vậy.” Tôi thưa. Người canh gác vẫn không nói gì hết. “Ông im lặng nghĩa là tôi được phép đi qua phải vậy không?”

Đọc truyện này, điều quan trọng là giải mã cho được cấu trúc ngôn ngữ của Kafka, chứ không phải là đánh giá con người tác giả Kafka trong truyện này. Mọi cách tiếp nhận cảm tính đều không thể đạt tới ý nghĩa đích thực của tác phẩm.

Hướng về tương lai, chúng ta có quyền hy vọng. Chúng ta chờ đợi những tài năng, nhưng đồng thời chúng ta cũng trân trọng mọi khám phá sáng tạo nghệ thuật, dù rất nhỏ, góp phần làm giàu đẹp đời sồng tinh thần của chúng ta. Dân tộc này vốn bình dị và đằm thắm nghĩa tình.

Mùa xuân Quý Tỵ - 2013
__________________________________________
(1) “Thi Vân yên Tử được sao chép từ đâu”- http://lethieunhon.com/read.php/6103.htm
(2) http://www.tienphong.vn/van-nghe/177160/Hoang-Quoc-Hai-Mao-hiem-voi-Tam-trieu-vua-Ly.html



Thứ Sáu, 7 tháng 12, 2012

CUOC SONG-VAN CHUONG và LÝLUẬN PHÊ BÌNH VĂN HỌC


CUỘC SỐNG - VĂN CHƯƠNG VÀ LÝ LUẬN PHÊ BÌNH
Bùi Công Thuấn
___________________________________________________________________

Nhân Đại hội VHNT Đồng Nai lần thứ V, tôi thử nhìn lại chặng đường 5 năm vừa qua (2007-2012) văn chương Đồng Nai đã có những bước đi như thế nào. Và từ đó ngẫm nghĩ đôi điều về tương lai. Hội VHNT Đồng Nai họat động bằng kinh phí của Nhà Nước, và thực hiện nhiệm vụ chính trị được UBND Tỉnh Đồng Nai trao phó, vì thế cần xem xét sự phát triển của văn chương trong tương quan với sự phát triển xã hội. Đồng thời cũng cần quan sát sự vận động nội tại của văn chương. Nó đang tiến về phía trước, hay dậm chân tại chỗ?

2007-2012 là 5 năm với những sự kiện lớn. Đồng Nai kỷ niệm Biên Hòa 310 năm (1698-2008), kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội (1010-2010), cũng là giai đoạn Đồng Nai có những bước phát triển mới.... Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng theo định hướng, tạo tiền đề để tỉnh phấn đấu trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại. UBND Tỉnh Đồng Nai đề ra Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015 : Phấn đấu đến năm 2015 trở thành tỉnh cơ bản công nghiệp hóa- hiện đại hóa. (Báo cáo số : Số: 10459 /BC-UBND ,ngày 16 tháng 12 năm 2010 của UBND tỉnh ĐN)

1.VĂN HỌC ĐỒNG NAI ĐÃ TRỞ THÀNH MỘT NỀN VĂN HỌC CÔNG NGHIỆP HÓA CHƯA?

Câu trả lời là chưa, nhưng 5 năm qua, văn học Đồng Nai đã có nhiều thành tựu cả về mặt phong trào và nỗ lực cá nhân.

Ban Văn Học đã tổ chức nhiều trại sáng tác cho các Hội viên. Nhiều đề tài đã được triển khai ở các địa bàn khác nhau hướng đến nhiều lĩnh vực đời sống, qua đó hội viên có cơ hội thâm nhập sâu vào hiện thực đang diễn ra xung quanh mình. Đó là, trại về đề tài công nghiệp, đề tài tam nông, đề tài chất độc da cam và nỗi đau còn lại sau cuộc chiến, đề tài Nhà Giáo-nhà trường, đề tài học tập gương đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội cũng đặt hàng viết về lịch sử 310 năm Biên Hòa Đồng Nai (Trên Dòng Sông Phố-tiểu thuyết của Trần Thúc Hà)

Về phía cá nhân nhà văn, tôi nhận thấy nhiều nhà văn có nỗ lực sáng tạo rất đáng kính nể. Nhiều nhà văn đã tham gia tích cực các trại sáng tác, các sinh hoạt của Hội, nhờ thế có những đóng góp cho thành tựu chung của VN ĐN.

Nhà văn Trần Thúc Hà, tuy năm nay đã 75 tuổi, trong 5 năm ông đã viết : Chuyện nhà tôi, tập truyện ngắn (2007); Người đàn bà, tập truyện ngắn (2008); Trên dòng sông Phố, truyện dài (2008); Nỗi đau này cho đến bao giờ, bút ký; Thế à, truyện ngắn; Người trầm lặng (2011); Người đi mở cõi ; Giã từ cù lao Phố ; Đồng nâu,truyện(2012) …

Nhà văn Nguyễn Quốc Hoàn, nay đã 67 tuổi , tham gia nhiều trại sáng tác, đã viết : Ký (2007)
;Ước mơ của chú bé tật nguyền; Tàn mà không phế; Những năm tháng hào hùng,truyện ký (2010); Xuân Định, sự giao hòa ý Đảng- lòng dân; Lấy máu mình vẽ chân dung Bác Hồ, bút ký (2012). Ngôi chợ quê độc đáo,bút Ký. Một hình ảnh giàu lòng yêu nước, bút ký (305 tr A4-2012)

Nhà văn Khôi Vũ, năm nay đã 62. Anh cho in liên tiếp các truyện dài và nhiều truyện ngắn: Phía sau một khách sạn (2007); Tóc trắng, truyện dài (2007); Vỡ dần trong mắt, tiểu thuyết (2009); Chuyện kể của chú bé phiêu lưu; Phù Phiếm Bên Biển - Tập truyện ngắn (2010)…

Nhà văn Tấn Hoài (Trần Quốc Tiến ) in Muối đỏ, truyện vừa (2007); Viên gạch lạ, tập truyện (2008); Viên kim cương biển,truyện; Hoa Quý Lan, tiểu thuyết (2012); Trường Bà Huồn, (Truyện ngắn). Cũ, mới xuân lộc (2012).

Nhà văn Hoàng Ngọc Điệp, người rất xông xáo trong phong trào sáng tác, cũng là người nhận được nhiều giải thưởng . Hoàng Ngọc Điệp thành công ở thể loại bút ký: Chú cún đeo lục lạc, tập truyện thiếu nhi (2007); Món quà giáng sinh, tập truyện thiếu nhi (2010); ”DỜI ĐÔ” và tấm tình nghệ sĩ với 1000 năm Thăng Long- Hà Nội; Lời tự tình của đất; Ngôi Nhà Gốm. Truyện ngắn; Hương Bưởi, Nắng Sớm, Vợ Chồng Kalíu,… truyện . Dạo chơi trong vườn,bút ký (2012). Chuyện một người Công giáo, bút ký (2012)…,

Nhà văn Đặng Minh Hân (79 tuổi), ngòi bút còn rất khỏe, đã in Văn thơ Đồng Nai, đôi điều cảm nhận,tiểu luận (2007); Chất anh hùng của người Đồng Nai, ký (2007); Chất độc da cam nỗi đau còn lại sau cuộc chiến tranh-phóng sự ảnh; Tiến độ xây dựng nông thôn mới ở huyện Xuân Lộc - Đồng Nai (2012); Đôi điều suy nghĩ về cuốn’ Học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh’, bút ký (2012)

Nhà nghiên cứu văn học Bùi Quang Huy đã in. Huỳnh Văn Nghệ như là giấc mơ. Giải khuyến khích của UBTQ Liên hiệp các Hội VHNT 2010; Văn học Đồng Nai Lịch sử &diện mạo, nghiên cứu (2011).

Nhà văn Nguyễn Một, sau Dòng sông độ lượng, ký (2007); là tiểu thuyết Đất trời vần vũ (2009) đạt giải C, cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà Văn (2009-2010); Ngược mặt trời, tiểu thuyết (2012)

Các nhà văn nhà thơ khác, có người in 1 cuốn, 2 cuốn, có người không in riêng thì đăng trên VNĐN và các trang mạng. Phải kể đến Xuân Bảo, Tiêu Thanh Giang, Đào trọng Thử, Đỗ Minh Dương, Đào Sỹ Quang, Lê Đăng Kháng, Dương Đức Khánh, Phạm Thanh Quang, Trần Thu Hằng, Nguyễn Hoài Nhơn, Kiều Văn Phẩm , Đàm Chu Văn, Lê Thanh Xuân, Hoàng Đình Nguyễn, Ngọc Thùy Giang, Trần Ngọc Tuấn, Nguyễn Đức Phước, Nguyễn Thị Khánh, Trương Thanh Phận, Đào Nguyên Thảo…, và gần đây : Trâm Oanh, Dương Thu Hường, Hạnh Vân được dư luận chú ý.

Về đề tài, nhà văn chú ý đến nhiều mặt của đời sống xã hội
Đề tài chiến tranh Cách Mạng có Một Hình ảnh Giàu Lòng Yêu nước (Bút ký của Nguyễn Quốc Hoàn), Tấn Hoài có Muối đỏ; Viên gạch lạ, Viên Kim Cương Biển. Hoa Quý lan…
Đề tài người lính, Anh Hoàng có tác phẩm Mặt trận thầm lặng (2007) về lực lượng vũ trang nhân dân, Lê Đăng Kháng có Người lính hát đơn ca, tập truyện ngắn (2007) và Sương sớm, tập truyện ngắn (2011)…

Đề tài lịch sử, Trần Thúc Hà có Trên dòng sông Phố và Người đi mở cõi..

Đề tài về Bác Hồ, Bác và trăng, tiểu luận của Xuân Bảo. Tình cảm Bác Hồ với Đồng Nai –tấm lòng người Đồng Nai với bác Hồ -Bút ký của Đàm Chu Văn. Lê Thanh Xuân có Ngõ Công Poăng- Ngôi Nhà Sàn Của Bác- Tân Trào,(2012). Đào Sỹ Quang : Bác Hồ sống mãi trong trái tim tôi,(2012)…
Nguyễn Thái Hải, Hoàng Ngọc Điệp, Trần Thu Hằng là những tác giả vẫn viết truyện cho thiếu nhi.

Đề tài về đời sống công nghiệp, về nông thôn, về nhà giáo, về quê hương Đồng Nai, về đất và người Đồng Nai, về nỗi đau da cam, về những vấn đề “nóng” của đời sống, tình yêu lứa đôi, những nghĩ suy về cuộc sống hôm nay chiếm đa phần trong các sáng tác của nhà thơ nhà văn Đồng Nai. Chẳng hạn: Phù Phiếm Bên Biển (Khôi Vũ), Sự Đời (Đào Sỹ Quang), Đòn Gió (Dương Thu Hường), Với Miền Đất Đỏ, Đợi chờ bình minh em của Đỗ Minh Dương. Đau, Trốn (Đào Trọng Thử), Người đẹp Cù lao (Bùi Kim Chi:), Trọn nghĩa vẹn tình (Hạnh Vân)…

Lý luận phê bình có Văn thơ Đồng Nai, đôi điều cảm nhận,tiểu luận (2007) của Đặng Minh Hân,Viên phấn và cây viết của Bùi Quang Tú; Văn học Đồng Nai lịch sử và diện mạo, nghiên cứu của Bùi Quang Huy. Chút tình tri âm (2009), Những tìm tòi nghệ thuật của Anh Đức (2009) và Những dòng sông vẫn chảy, LLPB (2011) của Bùi Công Thuấn…
(Tôi xin lỗi vì đã không nêu được đầy đủ tác phẩm của các tác giả Đồng Nai)

2.NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN

Chúng ta đã có tác phẩm đạt giải trung ương, nhưng chúng ta chưa có tác phẩm tương xứng với tầm vóc Đồng Nai hôm nay. Thời kháng chiến, Hoàng Văn Bổn đã có những bộ sử thi về Đồng Nai, (Trên Mảnh Đất Này, Miền Đất Ven Sông). Hôm nay ta có Trên Dòng Sông Phố, tiểu thuyết lịch sử của Trần Thúc Hà, nhưng Trên Dòng Sông Phố, chưa thể so sánh về tầm vóc đồ sộ và chất sử thi như tiểu thuyết sử thi của Hoàng Văn Bổn. Bao giờ VNĐN mới có những tác phẩm ngang tầm với nền văn học của các nước công nghiệp hóa khi Đồng Nai trở thành tỉnh công nghiệp?

Số người viết về đề tài về chiến tranh Cách Mạng còn rất ít, Tấn Hoài thành công ở Viên Gạch Lạ (chuyện ở miền trung) và Nguyễn Quốc Hoàn có tập bút ký Một Hình Ảnh Giàu Lòng Yêu Nước, viết về những người con anh hùng của Đồng Nai trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ

Những công trình nghiên cứu lịch sử văn học Đồng Nai mới chỉ manh nha ở cuốn “Văn học Đồng Nai Lịch sử &diện mạo” của Bùi Quang Huy (2011). Dù rất trân trọng công sức và tâm huyết của tác giả với văn học Đồng Nai, song tôi nghĩ, cuốn sách này cần phải được gia công nhiều hơn nữa mới đạt đến tầm vóc và giá trị mà tác giả mong muốn. Chẳng hạn, việc đưa Nguyễn Đình Chiều vào văn chương Đồng Nai (1861-1930) cần phải được xem lại, bởi Nguyễn Đình Chiểu đã về Bến Tre sống trong chùa Tôn Thạnh (Cần Giuộc-Long An) từ 1859, cũng tại đây ông viết Văn tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc 1861; về phương diện khác, tính lịch sử của sự phát triển văn học ở Đồng Nai cần được làm rõ. Điều còn thiếu của cuốn sách là văn học đương đại Đồng Nai chưa được nghiên cứu toàn diện. Cách viết lịch sử văn học còn chịu ảnh hưởng của cách viết trong nhà trường. Tác giả chưa thực sự có những kiến giải của riêng mình. Có khi có những đánh giá võ đoán, thiếu tính khoa học.. Chẳng hạn kết luận về nhà văn Lý Văn Sâm :” Ông sống gần trọn thế kỷ XX.. Trong 80 năm ấy, LVS như một người từ cõi nào đó, đến rồi đi. Ngay những lúc bình yên nhất, nhà văn vẫn tìm cách bứt ra khỏi sự phẳng lặng. Và, đến lúc không làm người giang hồ được nữa, ông ngồi nhớ da diết tháng ngày…Văn chương, đối với nhà văn, là một thứ cần phải viết,…” (tr. 539). Lý Văn Sâm là nhà văn Cách Mạng, đã từng bị địch bắt tù vì những trang văn của mình, là người cầm bút có lý tưởng, là nhà văn khai thác được đậm chất Đồng Nai, vậy mà tác giả lại coi là “ một người từ cõi nào đó, đến rồi đi”, sống” làm người giang hồ “, thì tôi e rằng, những đánh giá như thế sẽ gây họa cho những người đi sau (?)

Tôi nghĩ rằng Hội cần đầu tư chuyên sâu cho những mảng đề tài này với những kế hoạch và sự hỗ trợ thích đáng, may ra chúng ta mới có được tác phẩm tương xứng với tầm vóc Đồng Nai hôm nay

Chúng ta đã tổ chức nhiều trại sáng tác, đã tài trợ sáng tác nhiều tác phẩm, song kết quả không cao. Có tác giả sau một đợt dự trại, gửi về bản thảo chỉ 2 trang A4, nội dung như một bản tin. Nói cho thật đúng, cách tổ chức tham quan thực tế vài ngày rồi viết, thì dù nhà văn có tài, cũng chỉ có thể viết theo kiểu “cưỡi ngựa xem hoa”, cà kê về chuyến đi, gặp người này người kia, rồi thêm vào vài lời bình ngoại đề, thế là có tác phẩm. Có người chỉ gọi điện thoại nói chuyện với nhân vật rồi viết bài. Dù tác giả có tâm huyết và tài năng, thì những tác phẩm như vậy chỉ có thể cung cấp thông tin gián tiếp không có sự khám phá cái đẹp từ bên trong đối tượng.

Tôi muốn nói đến chất lượng tác phẩm. Người ta nói nhiều đến các yếu tố tạo nên tác phẩm như vốn sống, tư tưởng và chủ đề, năng lực tổ chức tác phẩm, tâm huyết với đề tài và cái tạng riêng , cái tư chất riêng của ngói bút. Xét đến cùng là tài năng, cái chuẩn mực mà Nam Cao phân biệt người thợ khéo tay và nhà văn, nhà thơ. Xin thí dụ. Cùng viết tùy bút về dòng sông, mặc dù Hoàng Phủ Ngọc Tường đi sau Nguyễn Tuân, nhưng tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông” vẫn mang đặc sắc tư tưởng nghệ thuật riêng của HPNT, khác với Sông Đà của Nguyễn Tuân. Để viết được một bài bút ký về sông Đồng Nai như Nguyễn Tuân và HPNT, tôi nghĩ nhà văn phải đổ ra không ít công sức và tâm huyết. Cũng vậy Nguyễn Tuân là bậc thầy về Tùy bút, Bút ký, nhưng Anh Đức, dù đi sau, bằng tập bút ký Bức Thư Cà Mau, vẫn tự tạo cho mình một vị trí riêng. Chúng ta học được gì từ Hoàng Văn Bổn, Lý Văn Sâm hay những nhà văn khác như Tô Hoài, Nguyễn Xuân Khánh? Những nhà văn đi trước ấy để lại cho ta những kinh nghiệm gì để làm nên tác phẩm giá trị?

Câu trả lời là phải sáng tạo.Tức là làm ra cái mới, đặc biệt là sự đổi mới về tư duy nghệ thuật và thi pháp.
Nhiều bài bút ký hôm nay vẫn giữ nguyên cách viết bút ký thời kháng chiến chống Mỹ cách nay đã 40 năm. Tất nhiên là nó không còn hợp với khẩu vị độc giả thế kỷ 21 toàn cầu hóa. Nhiều bài thơ hôm nay vẫn viết trong kiểu thi pháp thơ Đường luật thời Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, vẫn những kiểu thơ 7 chữ, 8 chữ vần điệu du dương với những tứ thơ lãng mạn như Thơ Mới; vẫn tổ quốc ơi, dòng sông ơi, con đò ơi, cánh cò ơi… kể người kể việc, như thơ kháng chiến, không vượt qua được Quang Dũng, Hoàng Cầm, Tố Hữu, Bằng Việt, Xuân Quỳnh…Thành ra thơ rất cũ. Đọc thơ mà thấy ngán ngẩm. Thơ không gây được ấn tượng với bạn đọc.(Xin mở ngoặc, tôi không có ý nói thơ cũ là không hay. Thực tế là, Tây Tiến của Quang Dũng, mặc dù đến nay đã 62 năm, đọc lại vẫn còn rất mới, trong khi Đèo Cả của Hữu Loan ra đời trước, lại không ấn tượng bằng)

Trong mấy chục năm qua, nhiều thế hệ nhà thơ VN đã nỗ lực cách tân, song cho đến giờ, chưa nhà thơ nào thành công trên con đường đổi mới thơ của mình, bởi chủ yếu họ cách tân về hình thức, mà thiếu hẳn một kiểu tư duy thẩm mỹ mới. (Lê Đạt có “bóng chữ”. Trần Dần sử dụng chữ rỗng, Khế Yêm làm thơ Tân Hình Thức, Hoàng Cầm, Thanh Thảo, Nguyễn Quang Thiều đi vào Siêu Thực, các nhà thơ trẻ thì thử nghiệm Hậu Hiện Đại…).

Ở Đồng Nai tôi cũng đã được đọc nhiều bài thơ hay trong các tập thơ của Xuân Bảo, Đỗ Minh Dương, Lê Thanh Xuân, Đàm Chu Văn, Trần Ngọc Tuấn…, đã được đọc nhiều truyện hay trong Viên gạch Lạ của Tấn Hoài, trong Phù Phiếm Bên Biển của Khôi Vũ, Nông Nổi Cù Lao của Dương Đức Khánh, Lời Tự Tình của Đất của Hoàng Ngọc Điệp, Một Hình ảnh Giàu Lòng Yêu Nước của Nguyễn Quốc Hoàn, Sự Đời của Đào Sỹ Quang, Sương Sớm của Lê Đăng Kháng…Nhưng tôi vẫn mong nhà thơ nhà văn đổi mới hơn nữa thi pháp và khám phá sâu sắc hơn nữa hiện thực mình khai phá.

Đã có những dấu hiện của sự đổi mới trong thơ Lê Thanh Xuân, Nguyễn Đức Phước, Trần Ngọc Tuấn, nhưng các tác giả đã không đi đến tận cùng con đường tìm tòi nghệ thuật của mình. Về Văn, Khôi Vũ, Nguyễn Một, Hoàng Ngọc Điệp có khá nhiều trăn trở trong việc tìm tòi những cách thể hiện mới, và ít nhiều đã gặt hái được thành công.

Tôi nghĩ, dù là nhà thơ hay nhà văn, thì cái khó nhất của người cầm bút là làm ra cái mới, sự nhọc nhằn khôn nguôi của người sáng tạo là nỗ lực vượt qua cái bóng của chính mình. Điều này chỉ những nhà văn nhà thơ đánh vật với con chữ, đau đáu tìm tòi trong đơn độc mới tìm thấy chìa khóa.

MỘT LỜI CHÚC TỐT ĐẸP
“đến năm 2015 Đồng Nai trở thành tỉnh cơ bản công nghiệp hóa- hiện đại hóa”, không biết đến đó (chỉ 3 năm nữa) văn chương Đồng Nai có trở thành một nền nghệ thuật như văn chương các nước công nghiệp hay không (!), tôi không kỳ vọng một cách máy móc về điều ấy. Nhưng thành tự của văn chương nghệ thuật đồng Nai trong 5 năm tới hoàn toàn trông nhờ vào nỗ lực sáng tạo của các nhà thơ nhà văn. Tôi tin rằng những nhà văn nay đã bảy tám mươi tuổi vẫn còn viết được, bởi viết văn là nghiệp. Và đội ngũ nhà văn trẻ kết thừa sẽ phát huy được tài năng để khẳng định thế hệ mình.

Xin kính chúc nhà thơ, nhà văn Đồng Nai dồi dào sức lực và ý tưởng sáng tạo trên một chặng đường mới .

Tháng 11.2012
_______________________________________________________
(1) Bài này không phải là bài tổng kết 5 năm văn học Đồng Nai. Qua một vài thành tựu của VH ĐN, tác giả suy nghĩ đôi điều.
(2) Xin đọc thêm các bài khác BCT đã viết về văn chương Đồng Nai (Về Hoàng Văn Bổn, Lý Văn Sâm, Nguyễn Đức Thọ, Khôi Vũ,Xuân Bảo, Đào Trọng Thử, Hải Ba, Đàm Chu Văn, Lê Thanh Xuân, Trần Ngọc Tuấn, Nguyễn Đức Phước, Nguyễn Một…

Trái Tim Biết Khóc, Nguyễn Đức Phước Đồng Nai, Văn Nghệ Trẻ đăng10/8/08 . Văn nghệ Đồng Nai số 44( tháng 9&10/08. http://www.vannghesongcuulong.org.vn/modules.php?name=News&op=viewst&sid=332

Người Đàn bà Lưu Vong
http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/vanhoc_tacpham.asp?TPID=10028&LOAIID=28&LOAIREF=1&TGID=743

Đọc Miền Đất ven Sông ,thử tìm hiểu tiểu thuyết sử thi của Hoàng Văn Bổn
http://hoinhavanvietnam.vn/News.asp?cat=8&scat=&id=1735

Lý Văn Sâm và hành trình tìm kiếm nhân vật lý tưởng :
http://www.phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=8514.


Đọc lại Lời Nguyền Hai Trăm Năm của Khôi vũ
http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/vanhoc_tacpham.asp?TPID=11625&LOAIID=28&LOAIREF=1&TGID=743

CHUYỆN CỦA NHỮNG KẺ CHƠI DAO.đọc Đất Trời Vần Vũ của Nguyễn Một
http://www.phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=9181
http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/vanhoc_tacpham.asp?TPID=11654&LOAIID=28&LOAIREF=1&TGID=743

TRIẾT LÝ NGƯỜI HIỀN. Đọc Sương Sớm của Lê Đăng Kháng
http://vanvn.net/news/11/1170-triet-ly-nguoi-hien.html. ngày 4.11.2011