Sáng tác ca khúc, truyện ngắn và phê bình văn chương của Bùi Công Thuấn. Bạn cũng có thể đọc BCT tại http://yume.vn/buicongthuan
Thứ Bảy, 28 tháng 4, 2012
"NGHỆ THUẬT GIẤU MẶT"CỦA NGUYỄN HUY THIỆP
“NGHỆ THUẬT GIẤU MẶT” CỦA NGUYỄN HUY THIỆP
Bùi Công Thuấn
Nguyễn Huy Thiệp (NHT) thường xuất hiện trực tiếp trong truyện để nói về việc mình đã viết câu chuyện này thế nào. Trong những trường hợp này, NHT tự cho mình vai trò nhân chứng, là người tận mắt chứng kiến và kể lại câu chuyện. Đó là thủ thuật viết lách đánh lừa lòng tin của người đọc.
Mở đầu Vàng Lửa, NHT kể lại việc mình nhận được thư của ông Quách Ngọc Minh, ngụ ở Tu Lý, huyện lỵ Đà Bắc bàn về truyện Kiếm Sắc. Ông Minh mời NHT lên chơi và hẹn cho NHT xem vài tư liệu. Nguyễn Huy Thiệp kể tiếp:” Nhận được thư tôi đã lên thăm gia đình ông Quách Ngọc Minh. Những tư liệu cổ mà ông Quách Ngọc Minh gìn giữ thật độc đáo. Về Hà Nội tôi viết truyện ngắn này. Khi viết, tôi có tự ý thay đổi một vài chi tiết phụ và sắp xếp, chỉnh lý lại các tư liệu để hợp với việc kể chuyện”
Mở đầu truyện Phẩm Tiết, NHT cũng xuất hiện trực tiếp trong truyện và kể lại sự việc như sau:”Việc tìm ra ngôi mộ cổ ở vùng lòng hồ trong khu vự thủy điện sông Đà khiến tôi lại lên Tu Lý, huyện lỵ Đà Bắc…Hôm dời mộ từ khu vực lòng hồ lên Tu Lý, tôi đã đến xem. Mộ ở vuông đất hẹp, bằng phẳng, cách bờ sông Đà hai trăm năm mươi mét, ở độ cao mười sáu mét kể từ mặt sông. Bao nhiêu năm nay chưa bao giờ lũ sông Đà ngập đến chỗ này”
Mở đầu truyện Tội ác và Trừng Phạt, NHT cà kê :” Đã có nhiều bạn đọc đến với tôi, họ kể lể về cuộc đời, than phiền những điều bất hạnh trong số phận, mong muốn tôi viết “một cái gì đấy” về tội ác và trừng phạt. Mong muốn của họ chân thành và cảm động…
Cô gái 16 tuổi ngồi trước mặt tôi phạm tội giết bố và ba đứa em. Cô ta giết bố bằng rìu, khi ông ngủ say..”
Kết thúc truyện Trương Chi, NHT bày tỏ thái độ viết :” Tôi - người viết truyện ngắn này- căm ghét sâu sắc cái kết thúc truyền thống ấy…còn tôi, tôi có cách kết thúc khác. Đây là bí mật của riêng tôi…”
NHT xuất hiện trực tiếp trong truyện là một đặc điểm (điều này không mới), nhưng trong nhiều truyện của NHT, người đọc nhìn rõ, nghe rõ nhân vật đang hành động, nói năng trong không gian truyện, đang lớn dần lên trong sự phát triển cốt truyện. Ấy vậy mà ta có cảm giác, không hoài nghi, rằng NHT đang phát ngôn trực tiếp quan điểm của mình qua nhân vật, không lầm lẫn đi đâu được, và đành chấp nhận sự đánh tráo nghệ thuật. Và nếu bạn đọc có “muốn bắt tận tay, day tận mặt” NHT (tác giả), thì ngay lập tức NHT biến mất. Nhân vật đứng án ngữ trước mặt ta, cảnh cáo ta : “Này đừng có ngu ngốc và dốt nát , nhân vật là nhân vật, nhân vật không phải là tác giả”.Tôi gọi đó là nghệ thuật dấu mặt của NHT.
Có thể coi nghệ thuật dấu mặt của NHT là một đặc điểm thi pháp, một đặc điểm phong cách, thể hiện cái “thâm” của tác giả, cái mà người ta gọi là ”tài” văn chương của NHT. Bạn đọc cần phải nắm được cái chìa khóa này mới có thể mở toang những ẩn mật đàng sau những con chữ
1.Nghệ thuật dấu mặt là gì?
Trong cuộc sống, bạn đọc có thể gặp nhiều trường hợp dấu mặt. Những người hoạt động bí mật trong lòng địch (thí dụ Phạm Xuân Ẩn) thì buộc phải dấu mặt, nghĩa là không được để lộ ra bất cứ chi tiết nào về nhân thân trước mắt kẻ địch, bởi sự lộ ra này sẽ là an nguy đến tính mạng. Ẩn mặt để tự bạo vệ. Ẩn mặt để thực hiện nhiệm vụ nào đó. Hầu hết những comment trên Internet đều là của những người mang mặt nạ.
Khi khán giả thấy nghệ sĩ hài Hoài Linh xuất hiện trên sân khấu trong tấu hài thi hoa hậu ba miền, thì trước mắt khán giả là hai con người. Một nghệ sĩ Hoài Linh có nhân thân cụ thể, không lầm lẫn với bất cứ nghệ sĩ nào khác, và một Hoài Linh đang diễn vai cô gái dự thi hoa hậu. Khán giả theo dõi và thưởng thức câu chuyện, nhưng đồng thời cũng theo dõi và thán phục Hoài Linh. Tất nhiên khi xem diễn, người ta xem nhân vật cô gái đang diễn trước mắt, còn nghệ sĩ Hoài Linh, cố dấu mình đi, cố ẩn mình đi trong hóa trang, cố hóa thân vào nhân vật, làm sao để người xem không thấy sự vụng về lộ liểu của màn diễn. Ẩn mặt là một yêu cầu nghệ thuật.
Cũng vậy, trong kỹ thuật viết truyện (truyện hư cấu-xin phân biệt với thể loại Ký, Tùy Bút…), tác giả không thể nhảy vào ngồi chồm hỗm giữa trang văn mà trực tiếp thuyết lý điều này, dạy bảo điều kia. Phải đọc những truyện như thế, người đọc không sao kềm chế được sự bực mình. Trong truyện (tự sự), câu chuyện phải diễn ra tư nhiên như nó đang diễn ra trong đời thực, người kể phải tuân theo những quy luật khách quan, tác giả không được bẻ cong hiện thực. Tác giả chỉ có thể phát ngôn qua hệ thống hình tượng, đặc biệt là nhân vật, chủ đề, tư tưởng…Ẩn mặt trở thành nguyên tắc sáng tác truyện. Ngay cả Nguyễn Khải trong Một Người Hà Nội, dù tác giả ghi rõ tên mình (đồng chí Khải), ghi rõ mình ở Sài gòn ra thăm Hà Nội, thì đồng chí Khải ấy cũng chỉ là một nhân vật, không phải tác giả. Đó cũng là một cách ẩn mặt. Việc tự nêu tên mình làm nhân vật chỉ là thủ thuật của bút pháp, là cách đánh lừa độc giả rằng, đây là truyện thật, truyện của tôi, tôi là người trong cuộc kể lại, tôi là nhân chứng sống, và những gì tôi nói là đáng tin.
Trường hợp của NHT không phải thế. Tác giả núp sau nhân vật, điều khiển nhân vật, và dùng miệng nhân vật trực tiếp phát ngôn quan điểm của mình. Đây là nghệ thuật dấu mặt đàng sau rất nhiều mặt nạ (có thể coi mỗi kiểu nhân vật của NHT là một kiểu mặt nạ). Và để nhận rõ tác giả, chỉ có một cách là gỡ bỏ những mặt nạ ấy, tức là giải mã cho được cái cách NHT biến thực thành giả, biến giả thành thật, cái cách đánh tráo như trong trò ảo thuật, cái cách tạo ra sự ỡm ờ hư hư thực thực, cái cách nói nghiêm túc mà thành ra là một thủ đoạn lừa ngoạn mục
2. Nguyễn Huy Thiệp đã dấu mặt như thế nào?
NHT mượn chuyện xưa để nói chuyện nay.
NHT kể chuyện lịch sử. Nhân vật có lại lịch tổ tiên gốc gác hẳn hoi. Tư liệu NHT dùng là có xuất xứ. Câu chuyện có những mấu chốt như trong chính sử. Người đọc bị hấp dẫn bởi những chuyện ly kì mà tưởng rằng lần đầu tiên lịch sử được tiết lộ. Nhưng hỡi ôi. Tất cả là bịa. NHT chỉ dùng những yếu tố có chất sử để nhào nặn câu truyện và thông qua đó phát ngôn quan điểm của mình.
Chẳng hạn, truyện Kiếm Sắc kể về Đặng Phú Lân, con Đặng Phú Bình, người gần gũi Nguyễn Ánh. NHT kết thúc rất “chân thành” thế này :” Viết truyện này, tôi muốn đề tặng gia Đình ông Quách Ngọc Minh để cảm ơn thịnh tình của gia đình ông đối với riêng tôi. Tôi cũng xin cám ơn một số nhà nghiên cứu lịch sử và bạn bè quen biết đã giúp tôi sưu tầm, chỉnh lý những tư liệu cần thiết cho công việc viết văn, vốn rất nhọc nhằn phức tạp, lại buồn tẻ nữa-của tôi”. Người đọc hẳn là tin như đinh đóng cột rằng NHT kể chuyện thật. Nhưng xin nhớ rằng, đặc trưng của truyện là hư cấu. Điều này NHT đã nói rõ về nhân vật Đặng Phú Lân :”Trong số người gần gũi với thế tổ Nguyễn Phúc Ánh những năm mưu phục lại cơ đồ nhà Nguyễn có một hào kiệt mà không sử sách nào nhắc đến. Người đó là Đặng Phú Lân”. Vâng, đã là nhân vật kề cận Nguyễn Ánh, được Ánh tin dùng suốt 9 năm 100 ngày, có bọn Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành, Võ Tánh đối chứng, nhất thiết sách sử không thể bỏ sót. Điều này lộ ra, đây là nhân vật do NHT bịa. Và dùng ông Quách Ngọc Minh cùng các nhà nghiên cứu lịch sử làm bình phong che chắn cho sự bịa đặt của mình.
Và vì là chuyện bịa, tất cả những phát ngôn của nhân vật đều là của NHT. Và đây là phát ngôn của Thiệp qua miệng Nguyễn Ánh về tình hình sĩ phu Bắc Hà và thân phận của họ dưới tay kẻ cai trị. Ánh bảo Lân :”Ta chỉ ghét bọn chữ nghĩa thôi, còn ngươi là con nhà võ thì sợ gì. Chữ nghĩa chúng nó thối lắm, ngụy biện, xảo trá tinh vi. Hành tung chúng ta chẳng lo. Toàn lũ ốm o, như dòi chồ, hèn mọn cả”…” Ta không tin bọn đó theo ta. Chúng nó quen tỉ tê với chữ nghĩa thì sẽ coi ta là vô đạo, không có tâm thế. Rửa đầu óc chúng mệt lắm”. Trong mắt NHT, kẻ sĩ Bắc Hà chỉ là bọn dòi chồ hèn mọn cả, còn kẻ nắm quyền lực thống trị thì vô đạo.NHT nói ngày xưa hay nói về thực tại hôm nay?
Cũng vậy, kết thúc truyện Vàng Lửa, NHT mới nói cho độc giả biết người Bồ Đào Nha viết nhật ký kể chuyện Phơrăngxoa Pơriê là nhân vật không có thật và câu chuyện được kể là bịa :”Hồi ký của người Bồ Đào Nha vô danh không viết gì thêm. Tôi, người viết chuyện này đã cất công đi tìm các thư tịch cổ và hỏi han nhiều bậc bô lão. Không có tài liệu gì và cũng không ai biết gì về thung lũng Quạ hoặc chuyện của những người châu Âu thời vua Gia Long. Mọi cố gắng của tôi trong nhiều năm nay vô hiệu”.
Như vậy Vàng Lửa là chuyện lịch sử được bịa đặt. Đã là chuyện bịa thì mọi phát ngôn của nhân vật trong Vàng Lửa đều là của NHT. NHT viết về Nguyễn Du như thế này :”Nguyễn Du thông cảm với những đau khổ của các số phận đơn lẻ mà không hiểu nổi nỗi đau khổ lớn của dân tộc. Đặc điểm lớn nhất của xứ sở này là nhược tiểu. Đây là một cô gái đồng trinh bị nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp. Cô gái ấy vừa thích thú, vừa nhục nhã, vừa căm thù nó…Nguyễn Du là đứa con của cô gái đồng trinh kia, dòng máu chứa đầy điển tích của tên đàn ông khốn nạn đã cướng hiếp mẹ mình”. NHT đã đưa những ý kiến đầy khiêu khích. Công luận đã phản đối sự lệch lạc võ đoán và tự ty như thế, bởi dân tộc này có một nền văn hóa riêng mà NHT không nhận ra được. Người ta hiểu rằng NHT chỉ mượn Nguyễn Du để nói về thực tại NHT đang sống.
Tôi nói NHT lệch lạc, võ đoán và tự ty khi đưa ra nhận định : Đặc điểm lớn nhất của xứ sở này là nhược tiểu. Đây là một cô gái đồng trinh bị nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp”. Bởi NHT đắp mắt che tai không học được từ lịch sử điều này, VN nằm trên giao lộ ngã tư quốc tế, chịu ảnh hưởng nhiều nền văn hóa, trong đó có Trung Hoa, Ấn Độ, sau này là phương Tây, và bây giờ là toàn cầu hóa. Hiện nay người ta đang nói đến sự xâm lăng của văn hóa Hàn Quốc, lối sống thực dụng Mỹ. Nhưng bản lĩnh của dân tộc Việt là sự tiếp thu và Việt hóa tất cả các yếu tố ngoại lai, biến chúng thành những yếu tố có lợi cho mình và làm giàu văn hóa dân tộc. Phật giáo, Nho giáo, Đạo Giáo, Chủ nghĩa Lãng Mạn, chủ nghĩa Marx vào việt Nam và được đồng hóa thành văn hóa VN, đó là những thí dụ.
Làm sao có thể nói lời của nhân vật cũng là lời của Nguyễn Huy Thiệp?
Ở trên tôi đã nói, khi câu chuyện được kể là hoàn toàn bịa, thì mọi phát ngôn trong truyện của nhân vật cũng là của tác giả. Xét ở mức độ văn bản, văn bản có hai lớp nghĩa, nghĩa tường minh là lời của nhân vật, còn hàm nghĩa là lời của tác giả. Khi một phát ngôn vi phạm vào nguyên tắc giao tiếp (thí dụ, phát ngôn thừa hoặc thiếu thông tin) thì phát ngôn ấy tạo ra hàm nghĩa. Xin thử đọc.
“Lúc này ở Châu Âu, nền Đế chế Napôlêông Bonnapac đã sụp đổ.Châu Âu chín chắn hơn. Họ đã bắt đầu hiểu vẻ đẹp và vinh quang một dân tộc không phải do cách mạng hoặc chiến tranh mang lại, cũng không phải do các nhà tư tưởng hoặc các hoàng đế mang lại, bởi vậy họ sống đỡ căng thẳng hơn, giản dị hơn, hợp tự nhiên hơn…”(Vàng Lửa)
Đây là lời trực tiếp của NHT kết truyện. Lớp nghĩa tường minh là nghĩa trong câu chuyện thời Napôlêông. Nhưng hàm nghĩa NHT nói về thực tại VN : vẻ đẹp và vinh quang một dân tộc này là do cách mạng, do hai cuộc kháng chiến mang lại, và do tư tưởng chủ nghĩa Marx Lê-nin.Và vì thế ở VN sống căng thẳng, phức tạp và trái lẽ thường. Trong văn bản của NHT có 3 lần so sánh “hơn”, tạo ra tình trạng thiếu thông tin, buộc người đọc phải liên tưởng đến đối tượng được so sánh “hơn ai, hơn cái gì” (hiểu ngầm ). Đối tượng ấy nhất thiết phải có sự tương đồng với cách mạng, chiến tranh và các nhà tư tưởng, từ đó người đọc hiểu rằng NHT nói về thực tại VN.
Điều này được nhận thức ngay khi người đọc liên tưởng đến thực tại. Các kênh truyền thông của Nhà Nước, trong trường học, trên báo chí truyền thanh truyền hình, luôn khẳng định vinh quang của dân tộc nài là thành quả cách mạng, chủ nghĩa Mác-Lênin là kim chỉ nam để xây dựng chủ nghĩa xã hội và hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ là chiến thắng có tầm vóc thời đại và lịch sử. NHT đã phủ định cách mạng, kháng chiến và chủ nghĩa xã hội ở VN bằng hai từ “không phải” liên tiếp:”. Hàm nghĩa là không có cách mạng không có kháng chiến, không có các nhà tư tưởng, chủ nghĩa này tư tưởng nọ thì dân sẽ sống đỡ căng thẳng hơn, giản dị hơn, hợp tự nhiên hơn.
Những đoạn văn bày tỏ chính kiến đứng độc lập.
Có thể nhận ra phát ngôn của NHT (thông qua miệng nhân vật) ở chỗ, những phát ngôn ấy có thể đứng một mình, tách biệt với nhân vật. Ở vị trí ấy, đoạn văn chính là phát ngôn trực tiếp của tác giả. Tác giả là người chịu trách nhiệm về ý kiến của mình
Hãy nghe NHT đánh giá về Nguyễn Trãi và Lê Lợi:
“Trước đây, khi dâng “Bình Ngô sách” cho Bình Định Vương Lê Lợi, Nguyễn đề xuất tư tưởng nhân nghĩa, ông coi nó là máu thịt dân tộc là nguyên tắc ứng xử giữa con người. Nguyễn đã hướng về tuyệt đối. Song chính Nguyễn đã một chiều, thậm chí không tưởng. Lê Lợi tỉnh táo hơn, nhận ra Nguyễn đã mắc bẫy bởi chính tư tưởng của mình. Lê Lợi biết tư tưởng đó chỉ là ngọn cờ khởi sự chứ không phải phương pháp. Hơn nữa ngọn cờ ấy chỉ phù hợp với tình trạng khốn cùng về vật chất của đám đông trong từng khoảng thời gian nhất thời. Lê Lợi vĩ đại vì đã thực tế hơn Nguyễn về cuộc sống…Nguyễn tôn sùng đám đông nhưng Lê Lợi tin chắc chỉ có những cá nhân siêu việt mới có khả năng gây men cho lịch sử. Lê Lợi hiều rõ khả năng tạo dựng và khả năng phá bỏ của Nguyễn nhưng Nguyễn lại không có khả năng giữ nguyên tình trạng. Giữ nguyên tình trạng đòi hỏi một dự ngu xuẩn phi thường, một sự ngu xuẩn thiên tài. Bao giờ cũng vậy, giữ nguyên tình trạng đòi hỏi những con bệnh lớn”(Nguyễn Thị Lộ).
Đoạn phát ngôn trên cũng vi phạm nguyên tắc về lượng thông tin, vì thế nó lại tạo ra hàm ý ( bạn đọc thử khám phá hàm ý của NHT ?) Xin chia sẻ điều này . NHT gọi Nguyễn Trãi là Nguyễn mà không gọi là Trãi hay Ức Trai tiên sinh, trong khi NHT gọi các nhân vật khác bằng tên như gọi Nguyễn Ánh là Ánh, gọi Đặng Phú Lân là Lân .Đó là một dụng ý. Đặt Nguyễn bên cạnh các chỉ dẫn khác của NHT là : Nguyễn đã mắc bẫy bởi chính tư tưởng của mình, ngọn cở khởi sự, Nguyễn tôn sùng đám đông (quần chúng), bạn đọc sẽ nhận ra NHT muốn nói về ai. Thời Nguyễn Trãi không nói “đám đông” mà nói “dân đen”, nói “nhân dân bốn cõi một nhà”
Trong mạch kể truyện, đoạn văn trên là suy nghĩ của Nguyễn Trãi về chính mình. Nhưng trong cách viết, NHT đã để Nguyễn Trãi, Lê Lợi ở ngôi thứ ba, gọi Nguyễn Trãi là ông, là Nguyễn, và nhìn Nguyễn Trãi bằng con mắt khách quan, nhìn Nguyễn từ bên ngoài. Vì thế đoạn văn trở thành đáng giá của NHT về Nguyễn Trãi. Thông qua đó đánh giá về Nguyễn, và tư tưởng của Nguyễn ở hiện tại. Đánh giá này hoàn toàn là sự suy diễn chủ quan của NHT. Có thể nói, viết truyện Nguyễn Thị Lộ, NHT tỏ ra rất non tay về xây dựng cốt truyện, khắc họa nhân vật, miêu tả tâm lý và lý giải những vấn đề lịch sử của Nguyễn Trãi. May ra truyện còn lắng đọng được một chút xót thương của Nguyễn Thị Lộ với nỗi cô đơn của Nguyễn Trãi (xét cô đơn như phạm trù Hiện Sinh). ”Ông cô đơn với chính đồng loại mình”..”Ông cô đơn giữa đời như một hành tinh hoặc một ngọn gió. Điều ấy khiến nàng xót xa”.Nhưng tôi tin NHT không nói về Nguyễn Trãi, mà nói về nhân vật đương thời…
Làm thế nào để nhận ra mặt thật của tác giả sau những mặt nạ?
Qua những chia sẻ ở trên, tôi nghĩ đã đủ những gợi ý để bạn đọc tiếp tục khám phá về NHT. Nhưng còn một điều có thể làm bạn băn khoăn, rằng khi tác giả hóa trang kỹ quá và thay đổi nhiều mặt nạ thì làm thế nào ta nhận ra mặt thật của tác giả. Quả là một vấn đề thú vị và cần được xem xét kỹ hơn.
Trở lại phần minh họa ở trên về nghệ sĩ hài Hoài Linh. Khi Hoài linh lên sân khấu, dù anh diễn vai gì, hóa trang kiểu gì, khán giả vẫn nhận ra Hoài Linh. Vậy căn cứ vào đâu để ta nhận ra HL ? Ấy là vóc dáng HL nhỏ thó và ốm, HL có cách anh diễn xuất riêng, giọng điệu của HL dù nhái giọng Bắc, hay Trung đều không lẫn được. HL cũng có những mảng đề tài sở trường riêng. Nói bằng ngôn ngữ phê bình thì đó là phong cách. Cũng vậy, dù NHT có dấu mặt sau nhiều mặt nạ, người ta vẫn nhận ra tác giá qua phong cách văn chương của ông.
Rất tiếc tôi chưa có dịp tìm hiểu kỹ về phong các NHT, nhưng có thể nhận thấy vài nét đặc điểm sau đây của phong cách ngòi bút NHT
Văn chương của NHT là văn chương “chửi”, chửi tục, hiểu theo cả nghĩa đen và nghĩa thuật ngữ phê bình văn học, tức là văn chương phê phán, phản kháng hiện thực. Kết thúc truyện Trương Chi, NHT viết :” Tôi - người viết truyện ngắn này- căm ghét sâu sắc cái kết thúc truyền thống ấy…còn tôi, tôi có cách kết thúc khác. Đây là bí mật của riêng tôi. Tôi biết giây phút rốt đời, Trương Chi cũng sẽ văng tục”…”. Trong suốt truyện Trương Chi, NHT để cho Trương Chi nhiều lần thốt ra tiếng chửi :”cứt”
“Chàng duỗi chân, ngả người vào lòng thuyền. Chàng nói :-Cứt…Giờ đây gặp Mỵ Nương, chàng hiểu chắc chắn rằng cuộc sống của chàng thật là cứt, là cứt chó, không sao ngửi được. Không chỉ riêng chàng mà cả bầy. Tất cả đều thối hoắc : - cứt. …Trương Chi không hát nữa. Chàng lại nói :- Cứt…Chàng ăn cá nhưng được vài miếng chàng lại nhổ đi. Chàng nói : -Cứt. Mị Nương bảo chàng hát, Trương Chi biết đó chỉ là trò cứt. Khi Trương Chi Hát, bọn hoạn quan đứng quanh nhiều lần cười ré lên :-Hát như cứt…Trương Chi lại chèo thuyền ra giữa tim sông. Chàng lại nói :-Cứt.”
Trong cách chửi, giọng văn NHT bình tĩnh dẫn dụ, sau đó bất ngờ bốp chát thẳng vào mặt đối tượng. Xin đọc. “ …Nhìn vào danh sách hơn 1000 hội viên Hội Nhà văn Việt Nam người ta đều thấy đa số đều chỉ là những người già nua không có khả năng, sáng tạo và hầu hết đều… "vô học", tự phát mà thành danh… Trong số này có tới hơn 80% là nhà thơ… trên thực tế cái danh nhà thơ là một thứ nhìn chung chỉ là nhăng nhít, hữu danh vô thực, chẳng ai muốn dây vào nó: nhà thơ đồng nghĩa với sự chập cheng, hâm hấp, quá khích, vớ vẩn, thậm chí còn lưu manh nữa. ( NguyỄn Huy Thiệp – Trò Truyện Với Hoa ThủyTiên.)
Xưa nay trong văn chương Việt Nam, không phải là không có văn chương “chửi”. Trần tế Xương, Vũ Trọng Phụng là những bậc thầy về văn chương chửi. Trong Số Đỏ, VTP chửi rất nhiểu hạng người, từ giới thầy thuốc, đến thầy tu, đến bọn hoạt đầu chính trị và cả anh hùng, vĩ nhân. VTP chửi cả Phạm Quỳnh, Hội Khai Trí Tiến Đức và các phong trào bình dân nhố nhăng đầu thế kỷ XX. Nhưng xin lưu ý rằng VTP chửi qua hình tượng nghệ thuật và chửi bằng nghệ thuật trào phúng, còn NHT chửi trực tiếp bằng nghệ thuật dấu mặt đằng sau nhiều mặt nạ, bằng cách làm méo mó nhân vật (Quang Trung, Nguyễn Trãi..). NHT chửi rất mạnh miệng những cái mà NHT cho là nhô nhăng ngu dốt, vô luân, bạc ác ở đời, “Chỗ nào cũng tàn ác, dâm tục,đểu giả, tham lam”(Đời Thế Mà Vui). Chỉ tiếc là NHT không có hệ tư tưởng minh triết làm nền và NHT cũng chưa đạt tới một nền tảng chân lý để từ đó có thể đưa ra những đánh giá một cách thuyết phục. NHT chỉ gây shock bằng những phát ngôn chọc giận thiên hạ, đi ngược lại thiên hạ, kiểu như hạ bệ Quang Trung, kiểu nói rất hồ đồ về nền văn hóa Việt Nam:” Đặc điểm lớn nhất của xứ sở này là nhược tiểu. Đây là một cô gái đồng trinh bị nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp. Cô gái ấy vừa thích thú, vừa nhục nhã, vừa căm thù nó”
Văn chương NHT là văn chương dấu mặt. Tôi coi đây là một đặc điểm thi pháp, cũng là một đặc điểm phong cách, bởi ở bất cứ truyện nào, ở nhân vật nào, người đọc đều có thể gặp cách viết ỡm ờ, cách viết hàm nghĩa (như tôi đã phân tích ở trên). Nếu không khám phá đặc điểm nghệ thuật này của ngòi bút NHT thì không thể hiểu Thiệp.
NHT có giọng văn lạnh đến vô cảm, trong thẳm sâu là một nỗi buồn thấm thía, nỗi buồn của sự bất lực trước thực tại. Và NHT đã thực hiện đúng quan điểm văn chương của mình là :“Văn chương phải bất chấp hết, ngập trong bùn sục tung lên, thoát thành bướm và hoa, đấy là chí thánh” (Giọt Máu VII), và văn NHT thuộc loại “văn làm loạn”(Giọt Máu II). Điều này quá rõ trong các truyện như Tướng Về Hưu, Huyền Thoại Phố Phường, Không Có Vua, Con Gái Thủy Thần, Giọt Máu, Những Người Thợ Xẻ,… Rất tiếc là NHT đã hất bùn lên tất cả, bất chấp đó là ai, kể cả Như lai và Giêsu Christ. Có rất ít sự thăng hoa thành bướm và hoa. Tại sao vậy, NHT lý giải :” Tôi chỉ căm giận, căm giận những phù vân trong toàn bộ hoàn cảnh sống của thời đại tôi. Những giáo điều đạo đức bao giườ cũng giản dị ngây ngô, buồn cười, sơ lược, thậm chí còn đểu giả nữa. Ác nhất là những giáo điều ấy đúng. Bởi nó cần. Nó là sợi xích tròng cổ để giữ hình ảnh tương đối về mỗi chúng ta. Nếu không sẽ là hủy diệt…”(Những Người Thợ Sẻ).
NHT cố gắng vượt qua cô đơn, phi lý, buồn nôn Hiện Sinh để Sang Sông đáo bỉ ngạn Thiền, nhưng chiếc đò lại quay về bến, và NHT trong mặt nạ nhà sư đã không đến bờ bên kia của giác ngộ được.
Người ta cũng nhận ra NHT đặc sắc trong những truyện mượn đề tài lịch sử để viết những truyện hư cấu như Kiếm Sắc, Vàng Lửa, Phẩm Tiết. Ông kết hợp cách viết của kiểu truyện diễn nghĩa cổ điển (Tam Quốc Diễn Nghĩa) với các kể dân gian, cách nói năng dân gian và cả cách thuật cô đọng của Kinh Thánh. Có thể nói NHT để lại dấu ấn ở mảng truyện này.Cũng qua mảng truyện này, NHT dùng ngày xưa để nói về thời đại mình.
Có một vấn đề tôi chưa tự trả lời được, cũng không dám hỏi NHT, sợ lại bị chửi, và mong được bạn đọc chia sẻ, đó là, tại sao NHT lại sử dụng nghệ thuật dấu mặt, và dấu mặt để thực hiện mục đích gì?
Tháng 4 năm 2012
NGUYỄN HUY THIỆP LÀ NGƯỚI THẾ NÀO
NGUYỄN HUY THIỆP LÀ NGƯỜI THẾ NÀO?
Bùi Công Thuấn
Trước đây tôi đã định viết về Nguyễn Huy Thiệp (NHT) nhưng lại thôi, vì người ta đã viết quá nhiều về Nguyễn Huy Thiệp, mình không nên làm ồn thêm.
Nhưng có một sự thật là Hội Nhà Văn Việt Nam chưa hề trao cho Thiệp giải thưởng nào. Thiệp nhận được giải thưởng của nước ngoài. Tác phẩm của NHT được dịch nhiều sang tiếng Pháp (ở Pháp Thiệp có 9 đầu sách được dịch). NHT được nhận giải thưởng Nonino ở Ý . Họ đọc Thiệp qua bản dịch tiếng Anh.
NHT thú nhận điều này :” người đã đề cử tôi cho giải thưởng Nonino có nói với tôi đại ý rằng: “Tôi chỉ đọc ông có hai truyện nhưng tôi đã “ngửi” thấy ở ông có điều gì đấy...”. Với bản dịch Crossing the River của Dana Sachs và 10 người khác nữa ở Mỹ, Nguyễn Huy Thiệp đã bị “giết phăng”, “giết không kịp ngáp” ở trong thế giới tiếng Anh... Đấy là một thực tế mà khi trao đổi với đại diện các nhà xuất bản có tên tuổi trong chuyến đi châu Âu vừa rồi tôi (NHT) mới nhận ra.(1)
1.Sự nổi tiếng của NHT có căn gốc từ đâu?
Trước hết NHT có tài kể chuyện lạ và hấp dẫn. Chủ để truyện ẩn rất sâu, điều này bộc lộ cái “thâm” của sĩ phu Bắc Hà. Tôi ít thấy người cầm bút đương thời có cái “thâm”, cái “độc” và cái “tài” như NHT. Người ta công nhận Thiệp viết hay nhưng không dám trao giải thưởng. Người ta nhận rõ NHT góp phần đổi mới văn hoạc VN nhưng không dám đưa NHT vào SGK. Có người bảo, NHT là cục xương khó nuốt của Hội Nhà Văn VN.
Văn Học VN đương đại có hai người gây được những bước ngoặt quan trọng về thi pháp truyện ngắn. Đó là Nam Cao và NHT. Sau Nam Cao, một thời người ta bắt chước cách viết của ông. Cũng vậy, NHT đã mở ra một cách viết mới mà cho đến nay nhiều người vẫn bắt chước (truyện Dị Hương vừa đạt giải, đã bắt chước cách viết của Kiếm Sắc)
Nhưng điều gây tranh cải và làm cho Thiệp nổi tiếng là ở thái độ của NHT trong tác phẩm, và cái cách NHT dùng văn chương cho những mục đích ngoài văn chương của mình. Thiệp có tài viết những đoạn văn ỡm ờ, kể những câu chuyện ỡm ờ, nửa thông minh, nửa mù mịt, nửa chân thật, nửa đểu cáng, và đặc biệt là tài dấu mặt sau rất nhiều kiểu mặt nạ.
Truyện của NHT lạ là ở chỗ, trước đó, nhà văn VN viết bằng phương pháp Hiện Thực XHCN. NHT triệt để bác bỏ kiều bút pháp này. NHT lạ ở chỗ, trước đó VHVN chỉ viết tụng ca, anh hùng ca, thì NHT lật đổ tất cả mọi thần tượng, kể cả Quang Trung (Phẩm Tiết) là người anh hùng của dân tộc. Cái thâm của Thiệp là ở chỗ, Thiệp mượn và bịa đặt ra chuyện xưa để nói về cái hiện thực hôm nay.Thiệp phủ định thực tại xã hội XHCN Thiệp đang sống, cái thực tại mà văn chương giai đoạn trước ca ngợi hết lời (”Đẹp vô cùng tổ quốc ta ơi!; “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”). Thiệp phủ định chủ nghĩa Marx –Lenin là nền tảng tư tưởng CM Việt Nam, . Và gần như Thiệp phủ định tất cả.
Trong Vàng Lửa, NHT viết :”Châu Âu chín chắn hơn. Họ đã bắt đầu hiểu vẻ đẹp và vinh quang một dân tộc không phải do cách mạng hoặc chiến tranh mang lại, cũng không phải do các nhà tư tưởng …”Đó là cách NHT mượn chuyện người để phủ định cái thực tại ở ta. Cứ theo câu chữ hàm ý mà đọc, thì Thiệp cho rằng ở ta vinh quang dân tộc là do cách mạng, do hai cuộc kháng chiến và do chủ nghĩa Mác-Lênin. Những điều như thế ở VN đã trở thành chân lý, thành tín niệm, không tranh cãi và được rao truyền trên tất cả các kênh truyền thông hàng ngày. Thiệp phủ định những điều ấy nhưng không nói thẳng ra, và người ta hiểu ý Thiệp nhưng không bắt bẻ Thiệp được.
Dây là một đoạn diễu nhại cái nhìn theo chủ nghĩa Marx :”Hắn bắt một con thạch sùng rồi để lên bàn. Hắn trình bày thế giới bằng cách miêu tả con thạch sùng ấy. Thượng tầng kiến trúc là đầu, hạ tầng cơ sở là chân, khúc đuôi là đạo đức. Hắn cho rằng đạo đức rụng rồi lại mọc, đạo đức có thể ngoe nguẩy một mình, còn toàn bộ sự sống chuồn mất”(Mưa)
Mượn lời Trương Chi, Thiệp chửi đời là cứt:”…chàng hiểu chắc chắn rằng cuộc sống của chàng thật là cứt, là cứt chó, không sao ngửi được. Không chỉ riêng chàng, mà cả bầy. Tất cả đều thối hoắc.-Cứt”(Trương Chi)
“Bạch thầy! Đâu đâu con cũng thấy toàn là súc vật. Mọi sự thảy súc vật hết. Cả sự chung tình cũng súc vật. Ý thức hướng thiện cũng súc vật nốt”(Sang Sông )
NHT chửi cả Hội Nhà Văn thế này:
“ …Nhìn vào danh sách hơn 1000 hội viên Hội Nhà văn Việt Nam người ta đều thấy đa số đều chỉ là những người già nua không có khả năng, sáng tạo và hầu hết đều… "vô học", tự phát mà thành danh. Trong số này có tới hơn 80% là nhà thơ tức là những người chỉ dựa vào "cảm hứng" để tuỳ tiện viết ra những lời lẽ du dương phù phiếm vô nghĩa, nhìn chung là lăng nhăng, trừ có dăm ba thi sĩ tài năng thực sự (số này đếm trên đầu ngón tay) là còn ghi được dấu ấn ở trong trí nhớ người đời còn toàn bộ có thể nói là vứt đi cả. Giai thoại có một nhà thơ nói về tình cảnh thơ ở trong bài thơ sau đây (tôi đã đưa chuyện này vào trong tiểu thuyết của tôi vì nó quá hay) khá tiêu biểu cho thực tế đó: "Vợ tôi nửa tỉnh nửa mơ/ Hôm qua nó bảo: Dí thơ vào l…/ Vợ tôi nửa dại nửa khôn/ Hôm nay lại bảo: Dí l… vào thơ!", tôi cũng không phủ nhận cảm tình của nhân dân đối với thơ nhưng quả thực trên thực tế cái danh nhà thơ là một thứ nhìn chung chỉ là nhăng nhít, hữu danh vô thực, chẳng ai muốn dây vào nó: nhà thơ đồng nghĩa với sự chập cheng, hâm hấp, quá khích, vớ vẩn, thậm chí còn lưu manh nữa.
Tôi biết sẽ có nhiều người phản ứng lại điều tôi nói "trắng phớ" ra như thế nhưng ở đây nó là thực tế. Tôi chỉ nói ra một thực tế "tàn nhẫn" mà mọi người vẫn tránh né hoặc "không nỡ" nói ra mà thôi. Đã đến lúc người ta phải nhìn vào thực tế để thúc đẩy văn học cũng như thúc đẩy xã hội phát triển. “
( NguyỄn Huy Thiệp – Trò Truyện Với Hoa ThủyTiên.)
Đoạn đối thoại sau đây , Thiệp biết rõ sẽ bị nhiều người chửi nhưng Thiệp tiếp tục chửi:”Nghe tôi nói nhé : lớn lên chú đừng sa vào con đường văn chương chữ nghĩa. Thế nào chú cũng ăn đòn. Người ta sẽ nguyền rủa đấy. Chú không chống nổi sự ngu dốt của bọn có học đâu. Tôi đây này, tôi hiểu sâu sắc sự ngu dốt của bọn có học tai hại thế nào, vừa phản động, nó vừa ngụy biện, lại vừa mất dạy. Sự ngu dốt của bọn có học tởm gấp vạn lần so với người bình dân…Tôi thấy buồn vì văn học của ta ít giá trị thật. Nó thiếu tín ngưỡng và thẩm mỹ thực”(Những Bài Học Nông Thôn)
Đoạn đối thoại sau đây Thiệp tự bộc lộ sự đánh giá về chính mình:
Tôi cười bảo :Anh biết không :người cách mạng chỉ chú tâm vào mục đích cuối cùng mà thôi. Anh Bường bào :” Đừng có bẫy tay vào chính trị tư tưởng, mày đều lắm”…”Bản chất của mày là một thằng trí thức lưu manh chính trị. Tởm lắm! (Những Người Thợ Xẻ)
Thiệp nói về việc đi dạy học của mình :”Lúc nãy ở trong chùa nói chuyện với sư, giật mình nghĩ lại thấy mấy chục năm nay mình đi dạy học, dạy trẻ con toàn những thứ láo khoét”(Chăn Trậu cắt Cỏ)
Vâng, như thế thì dù NHT kể truyện hay, nhưng NHT không có mục đích sáng tạo nghệ thuật, thì tác phẩm của NHT không hẳn là có ích cho đời, và có ích cho văn chương (tất nhiên là có ích cho những ai muốn dùng Thiệp để chống lại hiện thực Xạ Hội Chủ Nghĩa). NHT chỉ dùng văn chương làm phương tiện bộc lộ thái độ với chính kiến trước thực tại. Truyện của Thiệp hấp dẫn là bởi Thiệp biết khai thác nhiều kỹ thuật viết khác với bút pháp của chủ nghĩa Hiện Thực XHCN, nhưng mục đích của Thiệp là dẫn dụ người đọc vào những câu truyện mà ẩn sâu bên dưới lớp vỏ ngôn từ là thái độ chính trị của Thiệp.
2.Thái độ chính trị của Thiệp là gì?
Rời bỏ chủ nghĩa Hiện Thực XHCN, rời bỏ chủ nghĩa Marx, NHT tìm về cội nguồn tinh thần nào ? Đọc truyện của Thiệp, tôi thấy lổn nhổn, nếu không nói là bát nháo đến dở hơi (!) những ý niệm của chủ nghĩa Hiện Sinh, của Thiền, của Đạo, của Freud, của Thiên Mệnh. Tất cả còn sống sít, chưa được tiêu hóa (có lẽ NHT chưa được học đến nơi đến chốn. Thực tiễn cuộc sống của NHT cũng không cho phép ông tiếp cận với những tư tưởng này khi ông đi dạy học và sống ở miền Bắc VN trước 1975)
Xin đọc:
“oái oăm ở chỗ đạo là thứ danh không phải danh, điều ấy đẻ ra những khó khăn trong xuất xử. Chính Khổng Tử cho rằng người làm quan là để thi hành điều nghĩa chứ đạo thì chẳng thi hành được”(Nguyễn Thị Lộ). Rõ ràng NHT phê phán Lão Tử về Đạo.
Trong Đạo Đức Kinh Lão Tử Viết: Đạo Khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh”. Thiệp chỉ hiểu cái nghĩa đen mặt chữ của ý niệm Đạo. Cũng vậy, Khổng Tử coi trọng Nhân và Lễ, Mạnh Tử mới coi trong Nghĩa. Thuyết Thiên Mệnh của Khổng Tử và Đạo vô vi của LãoTử khác xa nhau. NHT cho vào một rọ và quậy cho nó nháo nhào lên. NHT chưa học vỡ nghĩa sách thánh hiền (mượn chữ của Nguyễn Tuân), nhưng cứ hô hoán lên, khiến những người không biết, tưởng Thiệp nói điều chân lý, họ vừa sợ Thiệp, lại vừa chê trách thánh nhân! Cũng trong truyện Nguyễn Thị Lộ, NHT gán cho Nguyễn Trãi phạm trù “cô đơn” của Triết học Hiện Sinh. Quả thực, sự vay mượn tư tưởng này không thể chấp nhận, bởi thời của Nguyễn Trãi chữa có triết học Hiện Sinh. Như kiểu người ta chê trách Nguyễn Du sao không cho Từ Hãi đi làm cách mạng rồi lên làm chủ tịch nước!!!
Thiệp nhận ra sự khiếm khuyết của văn chương VN là không có tư tưởng, và Thiệp nỗ lực bù vào chỗ khiếm khuyết ấy, nhưng tôi cho rằng Thiệp thất bại cả về tri thức, cách thể hiện tư tưởng và bút pháp. Chẳng hạn tư tưởng Hiện Sinh trong tác phẩm văn học phương Tây được trình bày bằng cách viết dòng ý thức thông qua miêu tả Hiện Tượng Luận. Thiệp chưa đạt tới cách viết này (Muối của Rừng). Khi chuyển sang khai thách tư tưởng Thiền (Sang Sông ), Thiệp cũng không đạt được cách nói vô ngôn là đặc trưng mỹ học Thiền.
NHT thất bại trong việc tìm kiếm một tư tưởng thấu đạt đến chân lý cho cuộc đời, anh trở nên bi quan.|”Chúng tôi cần gì nhiều tiền, nhiều nhà, nhiều đạo đức, nhiều anh hung Thắt buổi sáng, đã trưa, đã chiều. Thoắt mùa xuân, đã thu, đã đông…Chỉ có nỗi buồn là vĩnh cửu”( Con Gái Thủy Thần)
“Kìa trăm năm
Tài mệnh là gì
Chỉ thấy đớn đau”
(Kiếm Sắc)
Tôi nhặt những ánh mắt đời
Hòng dõi theo ánh mắt tôi
Dõi vào cõi ý thức
Cõi ý thức mênh mông xa vời
Dầu tôi biết vô nghĩa,vô nghĩa, vô nghĩa mà thôi”
(Thương Nhớ Đồng Quê)
“Đời người ta, ai chẳng đã từng săn đuổi bao điều phù du?”
(Những Ngọn Gió Tua Hát)
Không cần phải đọc kinh Phật, bạn đọc cũng hiểu NHT thiên về tư tưởng Phật, đời vô thường, đời là bể khổ (Khổ Đế trong Tứ Diệu Đế). Những tưởng NHT tìm thấy chân lý gì sau khi từ bỏ Chủ nghĩa HTXHCN, chủ nghĩa Marx, hóa ra anh lại chạy vòng vòng trở về thứ triết lí tiêu cực của Nguyễn Gia Thiều trong Cung Oán Ngân Khúc. Đó là một bứơc thụt lùi đáng thương hại!
Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này.
Tuồng ảo hóa đã bày ra đấy,
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau.
Trăm năm còn có gì đâu,
Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì !
Hơn thế NHT còn bộ lộc những nhận thức tư tưởng hết sứ méo mó.Qua lời nhận vật Bường, NHT phỉ báng thế này :” Con ơi, thế Giêsu Crit có đểu cáng và độc ác không? Như Lai có đểu cáng và độc ác không?”( Những Người Thợ Xẻ)
Đến như thế thì người đọc không còn gì để trao đổi với NHT nữa, bởi Như Lai và Giêsu Christ là hai con người truyền rao chân lý từ bi, bác ái. Hai con người ấy bằng chính đời sống tại thế của mình, đã đã chứng minh cho sự Giác ngộ và sự Cứu độ chúng sinh. Hơn 2000 năm nay, nhân loại đã tôn thờ hai con người ấy như đấng thiêng liêng, và tìm đến Phật, đến Giêsu như là người giúp mình sang sông “đáo bỉ ngạn”. Vậy mà NHT coi Đấng Giác Ngộ và Đấng Cứu Rỗi ấy đều là đểu cáng và độc ác, vậy còn ai trên cõi đời này đáng được NHT cho là từ bi, bác ái ? ?
3.Hãy xem NHT quan niệm thế nào về văn chương?
“Bác ơi, chữ nghĩa nó ghê gớm lắm. Nó là ma đấy. Yếu bóng vía là nó ám mình, nó làm cho thê thảm đau đớn mới thôi”…”Văn chương có nhiều thứ lắm. Có thứ văn chương hành nghề kiếm sống. Có thứ văn chương sửa mình. Có thứ văn chương trốn đời trốn việc. Lại có thứ văn chương làm loạn”(Giọt Máu II)
“Văn chương phải bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát thành bướm và hoa, đấy là chí thánh”(Giọt Máu VII)
“Văn chương là thứ bỉ ổi bậc nhất…Nó gây ra sự nổi loạn trong cuộc đời thường”(Chút Thoáng Xuân Hương)
Có lẽ không cần phải bình luận gì thêm khi Bộ Giáo Dục không đưa thứ văn chương “làm loạn”, của NHT vào sách giáo khoa.
Nhiều người đã ca tụng NHT khi thấy NHT từ bỏ chủ nghĩa Hiện Thực XHCH, thấy NHT phê phán hiện thực đất nước xây dựng theo chủ nghĩa xã hội dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin, thấy NHT lật nhào thần tượng (mượn Quang Trung để lật nhào thần tượng cách mạng). Đó là quyền của người đọc. Nhưng bình tâm mà đọc NHT, thì thấy rõ hạn chế này ở ngòi bút NHT. Văn NHT thiếu tư tưởng nhân đạo. Cái nhìn của NHT thiếu sự “thành ý, chính tâm”. NHT chỉ thấy cái ác, cái dâm cái loạn, cái đểu cáng. Còn nếu muốn nghe NHT nói chính trị, thì người đọc sẽ lắc đầu mà đi thôi.
Xin đọc
“Dân chúng nhẹ dạ nông nổi cũng như thế đấy. Các nhà chính trị, các thiên tài là kẻ có khả năng xô dạt dân chúng về cả một phía. Dân chúng cầu lợi. Chỉ cần tí lợi là họ sẽ a dua nhau bu đến. Họ không biết rằng điều ấy chất chứa toàn bộ sự vô nghĩa trong đời sống của họ. Họ sinh ra, hoạt động, kiếm ăn, cứ dạt chỗ nọ rồi dạt chỗ kia mà chẳng tự định hướng cho mình gì cả. Chỉ đến khi nào dân chúng hiều rằng không được cầu lợi, mà có cầu lợi thì cũng chẳng cho ai, người ta chỉ hứa hẹn suông để bịp bợm thôi, thảng hoặc có cho thì cho rất ít, lợi bất cập hại. Lợi phải do chính dân chúng tạo ra bằng sức lao động của mình. Họ cần hiểu rằng phải cầu một thứ cao hơn thế nữa, đấy là giá trị chân chính cho toàn bộ cuộc sống của mình, quyền được tự mình định đoạt cuộc sống, tóm lại là tự do”(Những Bài Học Nông Thôn)
Tôi không hiểu NHT đã “giảng đạo” hay lên lớp chính trị cho ai, vì anh nói đến sự vô nghĩa của đời sống (chủ đề của tôn giáo), anh lại nói đến ý nghĩa của lao động (một phạm trù của chủ nghĩa Marx-Lao động là vinh quang), rồi lại nói đến kinh tế (hoạt động, kiếm ăn). Mãi đến cuối đoạn văn mới lộ ra rằng con người, nhân dân cần tự do, nhưng họ không biết rằng tự do là giá trị trên hết, họ cũng không biết rằng họ đang nô lệ, đang bị các nhà chính trị lừa gạt…
Và theo cách viết đeo mặt nạ của Thiệp, thì Thiệp đang nói về nhân dân VN, nhân dân VN đang bị nô lệ mà không biết. Thiệp nói về các nhà chính trị VN: Họ chỉ “hứa hẹn suông để bịp bợm thôi”. Hãy bỏ qua tâm ý của Thiệp, thì bạn đọc nhận ra rõ ràng rằng Thiệp chẳng có một lý thuyết xã hội nào, hay nền tảng triết học tư tưởng nào để lập ngôn, chỉ có cách nói đưa đẩy vòng quanh, cảm tính, như thế Thiệp sẽ chẳng đối thoại với ai được (những lý thuyết gia kinh tế, chính trị), còn quần chúng nhân dân thì chán ngấy chính trị rồi. Họ sẽ lật tẩy cái bản mặt của Thiệp mà rằng :”
“Đừng có bẫy tay vào chính trị tư tưởng, mày đều lắm”…”Bản chất của mày là một thằng trí thức lưu manh chính trị. Tởm lắm! (Những Người Thợ Xẻ)
Tôi đã từ bỏ Nguyễn Huy Thiệp từ lâu lắm rồi! Bởi chăng nên mất thì giờ vào những thứ vô bổ mà thiệp chào mời như đoạn văn Thiệp viết ở trên.
Tháng 4.2012__________________________
Thứ Tư, 4 tháng 4, 2012
TÔI ĐI NHẶT BỤI VÀNG
TÔI ĐI NHẶT BỤI VÀNG
(Tuỳ bút-thơ của Xuân Bảo. Nxb Hội nhà văn-2008)
Tập sách Tôi Đi Nhặt Bùi Vàng gồm 3 phần. Ký sự, thơ Đường luật của Xuân Bảo và thơ họa của bạn bè
ĐẾN VỚI THƠ ĐƯỜNG
Phần ký sự ghi lại quá trình nhà thơ Xuân Bảo (XB) đến với thơ Đường luật. Dấu ấn sâu đậm đối với Xuân Bảo là ở Bảo Tàng Lịch Sử năm 1974. Henry Kissinger sang thăm Việt Nam, ông ta chỉ vào bài thơ Nam Quốc Sơn Hà và khẳng định, “Đây là điều I, chương đầu của Hiệp Định Paris” (tr8). Điều ấy làm Xuân Bảo ngỡ ngàng. Năm 2003, bài Hà Nội-Nỗi Nhớ, bài thơ đầu tiên của XB được in trong tập Bút Xưa (tập V), sau đó XB đi dự trại sáng tác ở Đà Lạt, gặp gỡ thi hữu Hoài Thu, Đăng Tâm (Ninh Thuận). Xuân Giáp Thân, XB được thư mời của Hoài Yên đề nghị gửi bài cho chủ đề Ngàn năm Thăng Long. Đầu năm 2004 XB được Hội VHNT Đồng Nai đề cử vào ban Nội dung Ngày Thơ VN lần thứ hai, nhờ đó XB cảm nhận được đặc sắc thơ của Bác qua bài Nguyên Tiêu. Những năm đầu thế kỷ XXI, đọc những tập thơ Bút Xưa, XB ngộ ra thơ Đường luật VN bỗng hồi sinh và khởi sắc. XB cũng được nhiều thân hữu họa thơ. Dự các cuộc hội thảo thơ (02.04.2000 và 27.04.2002), XB càng tin tưởng rằng “Thơ Đường luật VN không thể chết, không hề chết mà nó còn lung linh khoe sắc thời gian qua”(tr21). Và XB khẳng định trong bài Tham luận :” Giờ đây, thơ Đường luật đã được làm bằng thi liệu của cuộc sống hiện đại, đề cập đến muôn mặt đời thường của xã hội. Vậy thì thơ đường luật Việt Nam phải có vị trí xứng đáng trong làng thơ Việt Nam. Đó là một chân lý”. Cứ thế XB miên man về hành trình làm thơ Đường luật, yêu thơ Đường luật và trở thành nhà thơ với những bài thơ in trong các tuyển tập thơ Đường luật và in trong tập sách này.
Phần này sẽ giúp ích cho những ai muốn tìm hiểu quá trình XB yêu thơ Đường và sáng tác thơ Đường như thế nào. Điểm xuất phát của XB là lòng tự hào dân tộc. XB đã học tập thơ ca dân tộc. Những cuộc gặp gỡ với bạn thơ cùng với các hoạt động thi ca đã giúp XB nhận ra giá trị của thơ Đường luật đồng thời khơi nguồn sáng tạo cho XB
NHỮNG HẠT BỤI VÀNG
Sáu “hạt bụi vàng “ mà Xuân Bảo tìm được đa số đã lên lão, nhưng “Tinh thần chưa quá date”. Đó là các cụ Thanh Trúc (1930), Hạnh Phương (1947), Tòng Lâm (75 tuổi), Nguyễn Xuân An (1926). XB kể lại việc đi tìm, gặp gỡ và giới thiệu sơ lược về các cụ, kèm theo trích tuyển một đôi câu, một đôi bài (có cụ không có thơ trích tuyển). Những bài thơ mà Xuân Bảo trích đăng của họ, tôi không thấy bài nào xuất sắc, nếu không nói là làng nhàng (chữ của Nguyễn Khuyến). Xin đọc :
Tám chục xuân rồi hả?
Vui thơ quên tuổi già
Tinh thần chưa quá “date”
Sức khỏe dường lưng “gas”
Tâm đắc bao nhiêu cụ?
“Thôi xao” được mấy bà?
Mái đời sương điểm tuyết
Hồn bút vẫn mơ hoa”
(Tám chục - Hỏi mình. Thanh Trúc)
Một cụ được Xuân Bảo giới thiệu là túc Nho, hiểu sâu rộng về truyện Kiều, đã viết nhiều bài khảo cứu về truyện Kiều. Cụ cảm hứng “chú giải truyện Kiều” như sau:
Buồn tình chú giải truyện Kiều chơi
Mới biết Nguyễn Du thật tuyệt vời
Mỗi chữ tưởng như chừng dễ hiểu
Vài dòng giải nghĩa mãi chẳng xuôi
(Xuân An)
Khen Nguyễn Du tuyệt vời chỉ là cách vuốt đuôi thiên hạ mà thôi! Cụ Xuân An viết vài dòng mà không giải nghĩa được một chữ của truyện Kiều là do năng lực ngôn ngữ của Xuân An hạn chế. Người bình dân thuộc lòng truyện Kiều, đâu cần chú giải. Họ còn lẩy Kiều, tập Kiều, bói kiều rất nhập tâm nữa. Bởi thơ Nguyễn Du là tấm lòng thấu suốt nghìn đời, là tấm lòng đến với tấm lòng. Đọc Kiều mà phải thông qua chú giải thì không hiểu Kiều được. Việc chú giải truyện Kiều đã có các nhà chuyên môn, đâu cần nhà thơ!! đúng là cụ Xuân An “Buồn tình chú giải truyện Kiều chơi”, cụ làm chơi thôi, không phải là thật, không phải là chú giải của khoa ngôn ngữ, văn bản một cách chuyên nghiệp. Xin bạn đọc đừng hiều lầm!
Đọc những câu thơ Xuân Bảo trích dẫn, tôi chưa nhận ra hạt bụi vàng (chữ của Nguyễn Khải) nào lấp lánh cả. Phải chăng đó là cách dùng chữ của XB để bày tỏ sự trân trọng với người làm thơ đã “quá date”. Trân trọng cho phải phép Lễ-Nghĩa trong giao tiếp mà người Việt gọi là “kính lão”!
DẤU ẤN CỦA THƠ ĐƯỜNG LUẬT XUÂN BẢO
Phần Thơ Đường Luật có nội dung, đề tài tương đối rộng . Nhiều bài viết về Bác Hồ, về quê hương, về địa danh Đồng Nai (Trấn Biên, Tân Lân, Tân Triều, Xuân Lộc, Rừng Sác), Hà nội, Angkor. Xuân Bảo nghĩ suy về hiện tại, quá khứ, nỗi oan khiên của Nguyễn Trãi, tiếng trống trận của Quang Trung, giọt lệ Huyền Trân…
Thơ Xuân Bảo vừa có nét tài hoa vừa thể hiện được cái tình cuả nhà thơ đối với quê hương đất nước, gia đình, bè bạn.
Ánh dương rắc hạt sáng đường trần
Én vẽ trời xanh nét nét xuân
Lạc bước thi nhân vào cõi mộng
Hài in lối cũ gót giai nhân
(Nét Xuân)
DÒNG SÔNG QUÊ MẸ
Nao nao nhớ lại quãng đời qua
Bến nước, sân đình, với gốc đa
Thạch Hãn ngàn đời xuôi biển biếc
Nguồn Hàn muôn thuở đọng phù sa
Vấn vương kỷ niệm thời thơ dại
Đau đáu niềm riêng lúc tuổi già
Dù có mọi miền qua mọi chốn
Nhớ về quê mẹ nặng lòng ta
Có nhiều bài tạo được ấn tượng với người đọc về một phong cách lịch lãm, tao nhã, một nửa như cốt cách các nhà thơ Đường, một nửa như thi nhân Lãng Mạn thời Thơ Mới (1930-1945)
ĐỈNH BẠCH MÃ
Bạch Mã chon von Vọng Hải đài
Ngũ Hồ sóng sánh ánh dương mai
Đầu ghềnh vượn nhảy thân mờ tỏ
Cuối thác ve ngân tiếng vắn dài
Lãng đãng mây vờn mây ấp núi
Rì rào gió thoảng gió mời ai
Đổ Quyên thơm nức mùi hoa nở
Ta với tay lên tưởng chạm trời
Cảm hứng chung của thơ Xuân Bảo là tụng ca đất nước, con người. Khí vị thơ Xuân Bảo là khí vị thơ của những nhà Nho xưa khi “nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo / thảnh thơi thơ túi rượu bầu”, tuy cũng có bài lấy cảm hứng thế sự (Ngày Thơ Việt Nam, văn Miếu Trấn Biên, Làng Bưởi Tân Triều, Đàn Đá Bình Đa…)
Có điều, hiện thực hôm nay đã rất khác với những gì XB ghi nhận trong thơ. Cũng vậy, cảm thụ thơ hôm nay không còn là cảm thụ theo Chủ Nghĩa Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa của những năm 1945-1975. Lúc ấy, nhà thơ và người đọc thơ luôn bay lên trong cảm xúc lãng mãn, theo kiểu “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”(Lê Anh Xuân). Năm 1961, miền Bắc mới chỉ vừa ra khỏi chiến tranh, nhưng Tố Hữu đã đứng trên đỉnh cao muôn trượng nhìn nhân loại dưới chân :”Chào sáu mốt đỉnh cao muôn trượng/ Ta đứng đây mắt nhìn bốn hướng/ Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau/ Trông Bắc trông nam trông cả địa cầu”. Ngày ấy dân ta đi lượm ve chai để xây dựng chủ nghĩa xã hội :”Dọn tí phân rơi nhặt từng ngọn lá/ Mội hòn than mẩu sắt cân ngô/ Ta nâng niu gom góp dựng cơ đồ”! (Đã hơn 50 năm xây dựng chủ nghĩa Xã Hội, đến bây giờ, 2012, mới chỉ là định hướng xã hội chủ nghĩa). Nguyễn Khải đã viết truyện ngắn Cái Thời Lãng Mạn, và Nguyễn Minh Châu đã đọc Ai Điếu cho cái thời này. Những năm đổi mới (1986-1995), Văn chương Việt Nam đã phản tỉnh với Thời Xa Vắng, Mảnh Đất lắm Người Nhiều Ma, Đám Cưới Không Có Giấy Giá Thú, Thiên Sứ, truyện của Nguyễn Huy Thiệp…
Nói thế để thấy thơ tụng ca lãng mạn không còn là thơ của ngày hôm nay. Thế nhưng Xuân Bảo vẫn tụng ca:
Dòng sông ngăn bước nước dâng tràn
Thủy điện sôi trào thác Trị An
Động Ó tưng bừng vùng sinh thái
Đồng Trường rộn rã chốn tham quan
“Mã Đà sơn cước anh hùng tụ”
Vĩnh Cửu thâm lâm giặc Mỹ tan
Oanh liệt một thời lừng lẫy thế
Chiến khu đẹp mãi nước non ngàn
(Đây Trị An)
Rằng, nhà thơ đã ca ngợi Trị An rất đẹp, rất anh hùng, nhưng đó là của ngày xưa “oanh liệt một thời”. Còn hôm nay, báo chí đã đăng nhiều bài về những tiêu cực của các quan chức xẻ thịt lòng hồ Trị An. Ngay cả công trình thủy điện Trị An cũng không đạt yêu cầu như mục đích xây dựng. Dân Đồng Nai có đủ điện để dùng đâu!.
Hiện thực hôm nay có bao nhiêu điều nóng bỏng, nhưng thơ Xuân Bảo lại đứng ngoài cuộc. Biển Đông đã dậy sóng, lũ lụt hàng năm gây bao thiệt hại cho dân, tội ác giết người diễn ra hàng ngày, nhiều vụ tham nhũng thất thoát hàng trăm ngàn tỷ đồng, sự suy thoái đạo đức trong một bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng viên là nguy cơ về sự tồn vong của chế độ ( nghị quyết TW 4), nợ ngước ngoài của Việt Nam đã trở thành gánh nặng cho các thế hệ con cháu. Chênh lệch giàu nghèo ngày càng quyết liệt, bao nhiêu công trình gây lãng phí. Xin đơn cử nhà máy lọc dầu Dung Quất, xây tốn 3,5 tỷ USD, giờ cần 1,5 tỷ USD nữa để nâng cấp, thời gian xây dựng mất 20 năm. Chưa có một quốc gia nào làm ăn như vậy! Trớ trêu thay, một nước có dầu mỏ mà người dân hàng ngày cứ phải sử dụng dầu ngoại nhập với giá xăng tăng liên tục. Các tập đoàn, các nhóm lợi ích đang ra sức lũng loạn nền kinh tế, …
XB có bài thơ nào thể hiện thái độ của mình trước hiện thực ấy không? Khi nhà thơ đứng ngoài nhân gian thì thơ ca trở thành vô bổ. Người đời đọc thơ Đỗ Phủ, thơ Hồ Chí Minh bởi thơ ca là tiếng nói lương tri và trách nhiệm của nhà thơ trước thời đại.
Đọc bài thơ sau đây, bạn đọc sẽ phải hoài nghi về thái độ tụng ca của Xuân Bảo
Thời gian vun vút bóng câu qua
Thân phận con người thật xót xa
Quảng Trị xa rồi thời trai trẻ
Sài gòn gần lại lúc về già
Thánh răn tích đức vun điều thiện
Phật dạy tu nhân tránh ác tà
Diệu pháp hồng ân vơi nỗi nhớ
Mái chùa ríu rít tiếng chim ca
(Xa Quê Nỗi Nhớ)
Vâng, đó là thái độ nhận thức rằng “đời là bể khổ”, và nương náu mái chùa, tu nhân, tích đức mới là niềm vui. Vậy phải chăng” Oanh liệt một thời lừng lẫy thế” (Đây Trị An) cũng chỉ là trầm luân trong bể khổ của một thời lầm lạc, chưa ngộ được chân lý Thiền?
“Thơ Đường luật VN không thể chết, không hề chết…”
Thơ Đường luật là thể thơ nghiêm nhặt về niêm luật, giới hạn về câu chữ, lại đã có những thành tựu lớn trong lịch sử văn chương Việt Nam, thế nên những người làm thơ Đường luật đi sau khó vượt qua được con đường sáng tạo của nhà thơ lớp trước. Hầu như người làm thơ Đường luật hôm nay chỉ rập khuôn cách viết của người đi trước, đa phần là tụng ca sáo ngữ, không có khám phá mới nào về thi pháp. Vì thế thơ Đường luật trở nên khô khan, khuôn sáo và giả tạo. Nó tự đánh mất độc giả.
Xuân Bảo không vượt qua được hạn chế này của người làm thơ Đường luật đương đại.
HÀ NỘI-NỖI NHỚ
Nhớ lắm Hồ Gươm nhớ thiết tha
Nhớ mây Hà Nội, sóng Hồng Hà
Nhớ làng Võng Thị lung linh nguyệt
Nhớ trại Ngọc Hà rự rỡ hoa
Nhớ sáng Ba Đình cờ lộng gió
Nhớ chiều Bách Thảo nhạc hoan ca
Nhớ người yêu cũ ngày xưa ấy
Nhớ mối tình đầu dạ xót xa
Bài thơ rất chuẩn mực về niêm luật. Đọc bài thơ trên, người đọc biết được Xuân Bảo viết về Hà nội nhờ từng câu thơ có nhắc đến địa danh Hà Nội: Hồ Gươm, Ngọc Hà, Ba Đình, Bách Thảo. Tuy vậy Xuân Bảo không khám phá được gì là riêng của Hà Nội, mà tất cả hầu như rất chung chung. Mây Hà nội, sóng Hồng Hà có gì khác với mây ở Huế hay sóng sông Đồng Nai? Không cứ gì cờ ở Ba Đình lộng gió, mà khắp đất nước đầy gió này, cờ ở đâu mà không phất phới? Điều kỳ lạ là cảnh Hà Nội đẹp vậy mà tác giả nhớ người yêu cũ dạ xót xa. Người đọc không hề thấy đâu là Thăng Long - Hà Nội một ngàn năm lịch sử, một ngàn năm văn hiến, đâu là cảnh sắc riêng của Hà Nội, đâu là những bài học ý nghĩa lịch sử mà con người Việt Nam hôm nay nhận ra từ Hà Nội. Thành ra thơ Xuân Bảo viết về Hà nội chỉ có cái vỏ chữ, không có nghĩa. Hồn thơ lạc ở phương nào.
Xin đọc một bài tứ tuyệt của Xuân Bảo
QUA XUÂN LỘC
Xuân Lộc quê ta đất đỏ au
Cao su xanh mướt, chuối tươi màu
Ai về xin gửi niềm thương nhớ
Thắm thiết tình chung mãi có nhau
( Qua Xuân Lộc –Xuân Bảo )
LỜI RU – Đăng Tâm
(Hoạ bài Qua Xuân Lộc cuả Xuân Bảo
Quê hương đọng mãi điệu à-âu
Kỷ niệm chưa phai, tóc bạc màu
Năm tháng mỏi mòn chân lữ khách
Lời ru gợi nhớ đất chôn nhau
Bài cuả Xuân Bảo không nói được bất cứ điều gì riêng về Xuân Lộc, ngoài các chi tiết ai cũng biết : Xuân Lộc đất đỏ, có cao su và chuối.
Trong kháng chiến chống Mỹ, Xuân Lộc đã góp vào chiến thắng chung của dân tộc bằng cuộc chiến đấu 12 ngày đêm oanh liệt, mở cánh cưả thép phía bắc của chính quyền Mỹ -Thiệu, từ đó đại quân ta kéo về giải phóng Sài gòn làm nên thắng lợi lịch sử 1975. Xuân Lộc không chỉ có cao su và chuối. Vườn Xuân Lộc sum suê nhiều trái cây khác như Sầu riêng, Chôm chôm, Măng cụt, Mít, café..Xuân Lộc có những anh hùng như Lê A, Hồ Thị Hương, Xuân Lộc có những địa danh khá nổi tiếng như Suối Tre, K.4, Xuân Lộc còn có rất nhiều con suối như Suối Rết, Suối Đỉa, Suối Chồn, Suối Tre. Địa xanh hành chính Xuân Lộc đều bắt đầu bằng chữ Xuân như Xuân An, Xuân Bình, Xuân Trung, Xuân Mỹ, Xuân Phú, Xuân Hòa…Nhà thơ tỏ ra không hiểu cặn kẽ đất Xuân Lộc, vì thế cái tình chung, niềm thương nhớ, trở nên giả tạo và sáo rỗng.
Bài thơ họa của Đăng Tâm không còn bóng dáng gì cuả Xuân Lộc. Xuân Lộc đâu có riêng điệu ru À-âu. Xuân Lộc là nơi tụ về của dân khắp bốn phương trời, đâu có điệu ru riêng. Xuân Bảo không có kỷ niệm gì ở Xuân Lộc, nhưng Đăng Tâm lại lưu luyến kỷ niệm, bạn đọc không rõ là kỷ niệm gì, có thể là kỷ niệm của Đăng Tâm với Xuân Bảo trong một lần nào đó ghé qua Xuân Lộc chăng? Bài thơ có chữ mà không có nội dung, hay nói cách khác, viết chỉ để cho có vần có chữ sao cho họa được câu chữ của Xuân Bảo, có khi Đăng Tâm không hề biết gì về Xuân Lộc cũng nên. Vì bài thơ không có nội dung, nên lời ru gợi nhớ đất chôn nhau thành ra giả tạo. Cả hai bài xướng và hoạ về Xuân Lộc đều là sáo ngữ, chưa bao giờ thơ lại hời hợt và vô bổ đến thế!!!.
THƠ HỌA, HỌA THƠ
Những bài thơ xướng - họa như thế này trong tập Tôi Đi Nhặt Bụi Vàng là thơ của những người bạn, xưng tụng nhau theo kiểu thơ thù tạc.
Ở tuổi cổ lai hy, có bạn thơ xướng họạ thù tạc, đó là một thú chơi tao nhã. Thơ xướng họa đòi hỏi tài năng và khẩu khí, đòi hỏi công phu và nhiều bài cũng ánh lên nét đẹp tài hoa. Xuân Bảo có thơ được đông đảo thi hữu họa vần, đó là một tín hiệu về sự đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu giữa những tri kỷ. Bài Văn Miếu Trấn Biên là một thí dụ
Văn miếu Trấn Biên rạng sử xanh
Tôn sư trọng đạo mãi tôn vinh
“Rồng chầu xứ Huế” vùng nhân kiệt
“Ngựa tế Đồng Nai” cõi địa linh
Đức Khổng cương thường ngời thế thái
Bác Hồ tư tưởng sáng nhân tình
Hiền tài hun đúc từ nguyên khí
Bia tạc tên vàng thật xứng danh
(Văn Miếu Trấn Biên- Xuân Bảo)
Bài họa của Tiêu Thanh Giang có tình ý hơn cả
Đồng Nai sông núi đượm màu xanh
Có Trấn Biên xưa thật hiển vinh
Văn Miếu ghi ơn người sáng lập
Khuê Văn khắc đức thánh uy linh
Ngày nay con cháu rèn tâm ý
Qúa khứ cha ông rạng nghiã tình
Thành kính dâng hương lòng ngưỡi mộ
Mong sao đạo học mãi lưu danh
(Trấn Biên Xưa-Tiêu Thanh Giang)
Tiêu Thanh Giang chỉ họa vần và lấy đại ý để viết một bài thơ khác về Trấn Biên theo nghĩ suy riêng của mình, không gò bó câu chữ để đối với bài của Xuân Bảo.
Thực ra bài của Xuân Bảo có nhiều chỗ cầu kỳ thành ra rất gượng ép, Xuân Bảo muốn dẫn người họa thơ vào tử địa mà bó tay phục tài. Bài xướng thì nên vậy. Nhưng bài xướng của Xuân Bảo lại lộ ra nhiều tử huyệt của tác giả.
Câu thứ 2 lặp hai chữ “tôn”, đó là sự nghèo nàn về vốn từ và khả năng diễn đạt.
Phép đảo trong câu (5) và (6) làm hỏng ý tứ. Lẽ ra phải viết “đạo cương thường của đức Khổng”, Xuân Bảo đã gượng ép mà viết “Đức Khổng cương thường”. Cũng vậy, lẽ ra phải viết :”Tư tưởng của Bác Hồ”, Xuân Bảo lại viết :” Bác Hồ tư tưởng”. Cấu trúc này hoàn toàn sai với ngữ pháp tiếng Việt, làm hỏng sự trong sáng của tiếng Việt, điều mà bác Hồ luôn nhắc nhở người cầm bút.
Trong ngữ nghĩa đời thường, chữ “ thế thái nhân tình” có nghĩa tiêu cực, chỉ thói xấu của người đời (Xin đọc Thế Thái Nhân Tình của Nguyễn Bỉnh Khiêm), Xuân Bảo lại đem vào đánh giá đạo đức Khổng Tử và tư tưởng Hồ Chí Minh. Rằng đạo đức của Khổng Tử và tư tưởng HCM sáng ngời thế thái nhân tình. Tức là làm sáng cái đức xấu? Nhà Nho xưa luôn chú tâm làm sáng cái đức sáng (“tại minh minh đức”).Tôi cho rằng đó là chỗ người làm thơ kém tinh tế về ngữ nghĩa của ngôn từ, chứ không phải là cố ý hạ thấp giá trị đạo đức tư tưởng của các bậc thánh hiền.
Bài của Tiêu Thanh Giang tỏ ra hiểu sâu sắc hơn giá trị của Văn Miếu Trấn Biên, tuy có tụng ca song thành tâm hơn đối với người xưa. Bài này hơn hẳn bài của Xuân Bảo cả về tình ý và nghệ thuật thơ.
HY VỌNG MUỘN MÀNG
Chúng ta biết thơ Đường độc đáo ở tứ thơ tư tưởng. Vẻ đẹp thơ Đường là vẻ đẹp trí tuệ. Dù kể việc , tả tình hay bộc lộ nghĩ suy, thơ Đường có khả năng để lại những dấu ấn không phai trong thi ca nhân loại. Xin đọc các bài Tuyệt Cú của Giả Đảo ; Đề Đô Thành Nam Trang của Thôi Hộ; Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, thơ Đỗ Phủ, Lý Bạch… ; Thu Vịnh, Thu Điếu, Thu Ẩm cuả Nguyễn Khuyến…)
Thơ Đường luật của Xuân Bảo không có được tố chất này. Dường như người làm thơ không hiểu được đặc trưng thi pháp thơ Đường (?), không nghĩ đến việc cách tân thơ Đường luật, như những nhà thơ tiền bối (từ Nguyễn Trãi đến Nguyễn Khuyến ) đã nỗ lực Việt hóa thơ Đường. Có lẽ XB làm thơ là để vui tuổi già, để thù tạc? Nếu vậy còn mong gì có thơ để góp tiếng nói với thời đại và lịch sử.
Xin chia sẻ với Xuân Bảo ý này của cụ Thanh Trúc (ghép bài của Thanh Trúc với bài của Xuân Bảo)
Tám chục xuân rồi hả?
Vui thơ quên tuổi già…
…Thân phận thật xót xa
Xa rồi thời trai trẻ.
Tháng 3. 2012
_________________________________________________
Tham khảo
Nhân Tình Thế Thái – Nguyễn Bỉnh Khiêm
Thế gian biến cải vũng nên đồi ;
Mặn, nhạt, chua cay, lẫn ngọt bùi.
Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử ;
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi.
Xưa nay đều trọng người chân-thực ;
Ai nấy nào ưa kẻ đãi-bôi[1].
Ở thế, mới hay người bạc ác :
Giàu thì tìm đến, khó tìm lui.
(Tuỳ bút-thơ của Xuân Bảo. Nxb Hội nhà văn-2008)
Tập sách Tôi Đi Nhặt Bùi Vàng gồm 3 phần. Ký sự, thơ Đường luật của Xuân Bảo và thơ họa của bạn bè
ĐẾN VỚI THƠ ĐƯỜNG
Phần ký sự ghi lại quá trình nhà thơ Xuân Bảo (XB) đến với thơ Đường luật. Dấu ấn sâu đậm đối với Xuân Bảo là ở Bảo Tàng Lịch Sử năm 1974. Henry Kissinger sang thăm Việt Nam, ông ta chỉ vào bài thơ Nam Quốc Sơn Hà và khẳng định, “Đây là điều I, chương đầu của Hiệp Định Paris” (tr8). Điều ấy làm Xuân Bảo ngỡ ngàng. Năm 2003, bài Hà Nội-Nỗi Nhớ, bài thơ đầu tiên của XB được in trong tập Bút Xưa (tập V), sau đó XB đi dự trại sáng tác ở Đà Lạt, gặp gỡ thi hữu Hoài Thu, Đăng Tâm (Ninh Thuận). Xuân Giáp Thân, XB được thư mời của Hoài Yên đề nghị gửi bài cho chủ đề Ngàn năm Thăng Long. Đầu năm 2004 XB được Hội VHNT Đồng Nai đề cử vào ban Nội dung Ngày Thơ VN lần thứ hai, nhờ đó XB cảm nhận được đặc sắc thơ của Bác qua bài Nguyên Tiêu. Những năm đầu thế kỷ XXI, đọc những tập thơ Bút Xưa, XB ngộ ra thơ Đường luật VN bỗng hồi sinh và khởi sắc. XB cũng được nhiều thân hữu họa thơ. Dự các cuộc hội thảo thơ (02.04.2000 và 27.04.2002), XB càng tin tưởng rằng “Thơ Đường luật VN không thể chết, không hề chết mà nó còn lung linh khoe sắc thời gian qua”(tr21). Và XB khẳng định trong bài Tham luận :” Giờ đây, thơ Đường luật đã được làm bằng thi liệu của cuộc sống hiện đại, đề cập đến muôn mặt đời thường của xã hội. Vậy thì thơ đường luật Việt Nam phải có vị trí xứng đáng trong làng thơ Việt Nam. Đó là một chân lý”. Cứ thế XB miên man về hành trình làm thơ Đường luật, yêu thơ Đường luật và trở thành nhà thơ với những bài thơ in trong các tuyển tập thơ Đường luật và in trong tập sách này.
Phần này sẽ giúp ích cho những ai muốn tìm hiểu quá trình XB yêu thơ Đường và sáng tác thơ Đường như thế nào. Điểm xuất phát của XB là lòng tự hào dân tộc. XB đã học tập thơ ca dân tộc. Những cuộc gặp gỡ với bạn thơ cùng với các hoạt động thi ca đã giúp XB nhận ra giá trị của thơ Đường luật đồng thời khơi nguồn sáng tạo cho XB
NHỮNG HẠT BỤI VÀNG
Sáu “hạt bụi vàng “ mà Xuân Bảo tìm được đa số đã lên lão, nhưng “Tinh thần chưa quá date”. Đó là các cụ Thanh Trúc (1930), Hạnh Phương (1947), Tòng Lâm (75 tuổi), Nguyễn Xuân An (1926). XB kể lại việc đi tìm, gặp gỡ và giới thiệu sơ lược về các cụ, kèm theo trích tuyển một đôi câu, một đôi bài (có cụ không có thơ trích tuyển). Những bài thơ mà Xuân Bảo trích đăng của họ, tôi không thấy bài nào xuất sắc, nếu không nói là làng nhàng (chữ của Nguyễn Khuyến). Xin đọc :
Tám chục xuân rồi hả?
Vui thơ quên tuổi già
Tinh thần chưa quá “date”
Sức khỏe dường lưng “gas”
Tâm đắc bao nhiêu cụ?
“Thôi xao” được mấy bà?
Mái đời sương điểm tuyết
Hồn bút vẫn mơ hoa”
(Tám chục - Hỏi mình. Thanh Trúc)
Một cụ được Xuân Bảo giới thiệu là túc Nho, hiểu sâu rộng về truyện Kiều, đã viết nhiều bài khảo cứu về truyện Kiều. Cụ cảm hứng “chú giải truyện Kiều” như sau:
Buồn tình chú giải truyện Kiều chơi
Mới biết Nguyễn Du thật tuyệt vời
Mỗi chữ tưởng như chừng dễ hiểu
Vài dòng giải nghĩa mãi chẳng xuôi
(Xuân An)
Khen Nguyễn Du tuyệt vời chỉ là cách vuốt đuôi thiên hạ mà thôi! Cụ Xuân An viết vài dòng mà không giải nghĩa được một chữ của truyện Kiều là do năng lực ngôn ngữ của Xuân An hạn chế. Người bình dân thuộc lòng truyện Kiều, đâu cần chú giải. Họ còn lẩy Kiều, tập Kiều, bói kiều rất nhập tâm nữa. Bởi thơ Nguyễn Du là tấm lòng thấu suốt nghìn đời, là tấm lòng đến với tấm lòng. Đọc Kiều mà phải thông qua chú giải thì không hiểu Kiều được. Việc chú giải truyện Kiều đã có các nhà chuyên môn, đâu cần nhà thơ!! đúng là cụ Xuân An “Buồn tình chú giải truyện Kiều chơi”, cụ làm chơi thôi, không phải là thật, không phải là chú giải của khoa ngôn ngữ, văn bản một cách chuyên nghiệp. Xin bạn đọc đừng hiều lầm!
Đọc những câu thơ Xuân Bảo trích dẫn, tôi chưa nhận ra hạt bụi vàng (chữ của Nguyễn Khải) nào lấp lánh cả. Phải chăng đó là cách dùng chữ của XB để bày tỏ sự trân trọng với người làm thơ đã “quá date”. Trân trọng cho phải phép Lễ-Nghĩa trong giao tiếp mà người Việt gọi là “kính lão”!
DẤU ẤN CỦA THƠ ĐƯỜNG LUẬT XUÂN BẢO
Phần Thơ Đường Luật có nội dung, đề tài tương đối rộng . Nhiều bài viết về Bác Hồ, về quê hương, về địa danh Đồng Nai (Trấn Biên, Tân Lân, Tân Triều, Xuân Lộc, Rừng Sác), Hà nội, Angkor. Xuân Bảo nghĩ suy về hiện tại, quá khứ, nỗi oan khiên của Nguyễn Trãi, tiếng trống trận của Quang Trung, giọt lệ Huyền Trân…
Thơ Xuân Bảo vừa có nét tài hoa vừa thể hiện được cái tình cuả nhà thơ đối với quê hương đất nước, gia đình, bè bạn.
Ánh dương rắc hạt sáng đường trần
Én vẽ trời xanh nét nét xuân
Lạc bước thi nhân vào cõi mộng
Hài in lối cũ gót giai nhân
(Nét Xuân)
DÒNG SÔNG QUÊ MẸ
Nao nao nhớ lại quãng đời qua
Bến nước, sân đình, với gốc đa
Thạch Hãn ngàn đời xuôi biển biếc
Nguồn Hàn muôn thuở đọng phù sa
Vấn vương kỷ niệm thời thơ dại
Đau đáu niềm riêng lúc tuổi già
Dù có mọi miền qua mọi chốn
Nhớ về quê mẹ nặng lòng ta
Có nhiều bài tạo được ấn tượng với người đọc về một phong cách lịch lãm, tao nhã, một nửa như cốt cách các nhà thơ Đường, một nửa như thi nhân Lãng Mạn thời Thơ Mới (1930-1945)
ĐỈNH BẠCH MÃ
Bạch Mã chon von Vọng Hải đài
Ngũ Hồ sóng sánh ánh dương mai
Đầu ghềnh vượn nhảy thân mờ tỏ
Cuối thác ve ngân tiếng vắn dài
Lãng đãng mây vờn mây ấp núi
Rì rào gió thoảng gió mời ai
Đổ Quyên thơm nức mùi hoa nở
Ta với tay lên tưởng chạm trời
Cảm hứng chung của thơ Xuân Bảo là tụng ca đất nước, con người. Khí vị thơ Xuân Bảo là khí vị thơ của những nhà Nho xưa khi “nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo / thảnh thơi thơ túi rượu bầu”, tuy cũng có bài lấy cảm hứng thế sự (Ngày Thơ Việt Nam, văn Miếu Trấn Biên, Làng Bưởi Tân Triều, Đàn Đá Bình Đa…)
Có điều, hiện thực hôm nay đã rất khác với những gì XB ghi nhận trong thơ. Cũng vậy, cảm thụ thơ hôm nay không còn là cảm thụ theo Chủ Nghĩa Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa của những năm 1945-1975. Lúc ấy, nhà thơ và người đọc thơ luôn bay lên trong cảm xúc lãng mãn, theo kiểu “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”(Lê Anh Xuân). Năm 1961, miền Bắc mới chỉ vừa ra khỏi chiến tranh, nhưng Tố Hữu đã đứng trên đỉnh cao muôn trượng nhìn nhân loại dưới chân :”Chào sáu mốt đỉnh cao muôn trượng/ Ta đứng đây mắt nhìn bốn hướng/ Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau/ Trông Bắc trông nam trông cả địa cầu”. Ngày ấy dân ta đi lượm ve chai để xây dựng chủ nghĩa xã hội :”Dọn tí phân rơi nhặt từng ngọn lá/ Mội hòn than mẩu sắt cân ngô/ Ta nâng niu gom góp dựng cơ đồ”! (Đã hơn 50 năm xây dựng chủ nghĩa Xã Hội, đến bây giờ, 2012, mới chỉ là định hướng xã hội chủ nghĩa). Nguyễn Khải đã viết truyện ngắn Cái Thời Lãng Mạn, và Nguyễn Minh Châu đã đọc Ai Điếu cho cái thời này. Những năm đổi mới (1986-1995), Văn chương Việt Nam đã phản tỉnh với Thời Xa Vắng, Mảnh Đất lắm Người Nhiều Ma, Đám Cưới Không Có Giấy Giá Thú, Thiên Sứ, truyện của Nguyễn Huy Thiệp…
Nói thế để thấy thơ tụng ca lãng mạn không còn là thơ của ngày hôm nay. Thế nhưng Xuân Bảo vẫn tụng ca:
Dòng sông ngăn bước nước dâng tràn
Thủy điện sôi trào thác Trị An
Động Ó tưng bừng vùng sinh thái
Đồng Trường rộn rã chốn tham quan
“Mã Đà sơn cước anh hùng tụ”
Vĩnh Cửu thâm lâm giặc Mỹ tan
Oanh liệt một thời lừng lẫy thế
Chiến khu đẹp mãi nước non ngàn
(Đây Trị An)
Rằng, nhà thơ đã ca ngợi Trị An rất đẹp, rất anh hùng, nhưng đó là của ngày xưa “oanh liệt một thời”. Còn hôm nay, báo chí đã đăng nhiều bài về những tiêu cực của các quan chức xẻ thịt lòng hồ Trị An. Ngay cả công trình thủy điện Trị An cũng không đạt yêu cầu như mục đích xây dựng. Dân Đồng Nai có đủ điện để dùng đâu!.
Hiện thực hôm nay có bao nhiêu điều nóng bỏng, nhưng thơ Xuân Bảo lại đứng ngoài cuộc. Biển Đông đã dậy sóng, lũ lụt hàng năm gây bao thiệt hại cho dân, tội ác giết người diễn ra hàng ngày, nhiều vụ tham nhũng thất thoát hàng trăm ngàn tỷ đồng, sự suy thoái đạo đức trong một bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng viên là nguy cơ về sự tồn vong của chế độ ( nghị quyết TW 4), nợ ngước ngoài của Việt Nam đã trở thành gánh nặng cho các thế hệ con cháu. Chênh lệch giàu nghèo ngày càng quyết liệt, bao nhiêu công trình gây lãng phí. Xin đơn cử nhà máy lọc dầu Dung Quất, xây tốn 3,5 tỷ USD, giờ cần 1,5 tỷ USD nữa để nâng cấp, thời gian xây dựng mất 20 năm. Chưa có một quốc gia nào làm ăn như vậy! Trớ trêu thay, một nước có dầu mỏ mà người dân hàng ngày cứ phải sử dụng dầu ngoại nhập với giá xăng tăng liên tục. Các tập đoàn, các nhóm lợi ích đang ra sức lũng loạn nền kinh tế, …
XB có bài thơ nào thể hiện thái độ của mình trước hiện thực ấy không? Khi nhà thơ đứng ngoài nhân gian thì thơ ca trở thành vô bổ. Người đời đọc thơ Đỗ Phủ, thơ Hồ Chí Minh bởi thơ ca là tiếng nói lương tri và trách nhiệm của nhà thơ trước thời đại.
Đọc bài thơ sau đây, bạn đọc sẽ phải hoài nghi về thái độ tụng ca của Xuân Bảo
Thời gian vun vút bóng câu qua
Thân phận con người thật xót xa
Quảng Trị xa rồi thời trai trẻ
Sài gòn gần lại lúc về già
Thánh răn tích đức vun điều thiện
Phật dạy tu nhân tránh ác tà
Diệu pháp hồng ân vơi nỗi nhớ
Mái chùa ríu rít tiếng chim ca
(Xa Quê Nỗi Nhớ)
Vâng, đó là thái độ nhận thức rằng “đời là bể khổ”, và nương náu mái chùa, tu nhân, tích đức mới là niềm vui. Vậy phải chăng” Oanh liệt một thời lừng lẫy thế” (Đây Trị An) cũng chỉ là trầm luân trong bể khổ của một thời lầm lạc, chưa ngộ được chân lý Thiền?
“Thơ Đường luật VN không thể chết, không hề chết…”
Thơ Đường luật là thể thơ nghiêm nhặt về niêm luật, giới hạn về câu chữ, lại đã có những thành tựu lớn trong lịch sử văn chương Việt Nam, thế nên những người làm thơ Đường luật đi sau khó vượt qua được con đường sáng tạo của nhà thơ lớp trước. Hầu như người làm thơ Đường luật hôm nay chỉ rập khuôn cách viết của người đi trước, đa phần là tụng ca sáo ngữ, không có khám phá mới nào về thi pháp. Vì thế thơ Đường luật trở nên khô khan, khuôn sáo và giả tạo. Nó tự đánh mất độc giả.
Xuân Bảo không vượt qua được hạn chế này của người làm thơ Đường luật đương đại.
HÀ NỘI-NỖI NHỚ
Nhớ lắm Hồ Gươm nhớ thiết tha
Nhớ mây Hà Nội, sóng Hồng Hà
Nhớ làng Võng Thị lung linh nguyệt
Nhớ trại Ngọc Hà rự rỡ hoa
Nhớ sáng Ba Đình cờ lộng gió
Nhớ chiều Bách Thảo nhạc hoan ca
Nhớ người yêu cũ ngày xưa ấy
Nhớ mối tình đầu dạ xót xa
Bài thơ rất chuẩn mực về niêm luật. Đọc bài thơ trên, người đọc biết được Xuân Bảo viết về Hà nội nhờ từng câu thơ có nhắc đến địa danh Hà Nội: Hồ Gươm, Ngọc Hà, Ba Đình, Bách Thảo. Tuy vậy Xuân Bảo không khám phá được gì là riêng của Hà Nội, mà tất cả hầu như rất chung chung. Mây Hà nội, sóng Hồng Hà có gì khác với mây ở Huế hay sóng sông Đồng Nai? Không cứ gì cờ ở Ba Đình lộng gió, mà khắp đất nước đầy gió này, cờ ở đâu mà không phất phới? Điều kỳ lạ là cảnh Hà Nội đẹp vậy mà tác giả nhớ người yêu cũ dạ xót xa. Người đọc không hề thấy đâu là Thăng Long - Hà Nội một ngàn năm lịch sử, một ngàn năm văn hiến, đâu là cảnh sắc riêng của Hà Nội, đâu là những bài học ý nghĩa lịch sử mà con người Việt Nam hôm nay nhận ra từ Hà Nội. Thành ra thơ Xuân Bảo viết về Hà nội chỉ có cái vỏ chữ, không có nghĩa. Hồn thơ lạc ở phương nào.
Xin đọc một bài tứ tuyệt của Xuân Bảo
QUA XUÂN LỘC
Xuân Lộc quê ta đất đỏ au
Cao su xanh mướt, chuối tươi màu
Ai về xin gửi niềm thương nhớ
Thắm thiết tình chung mãi có nhau
( Qua Xuân Lộc –Xuân Bảo )
LỜI RU – Đăng Tâm
(Hoạ bài Qua Xuân Lộc cuả Xuân Bảo
Quê hương đọng mãi điệu à-âu
Kỷ niệm chưa phai, tóc bạc màu
Năm tháng mỏi mòn chân lữ khách
Lời ru gợi nhớ đất chôn nhau
Bài cuả Xuân Bảo không nói được bất cứ điều gì riêng về Xuân Lộc, ngoài các chi tiết ai cũng biết : Xuân Lộc đất đỏ, có cao su và chuối.
Trong kháng chiến chống Mỹ, Xuân Lộc đã góp vào chiến thắng chung của dân tộc bằng cuộc chiến đấu 12 ngày đêm oanh liệt, mở cánh cưả thép phía bắc của chính quyền Mỹ -Thiệu, từ đó đại quân ta kéo về giải phóng Sài gòn làm nên thắng lợi lịch sử 1975. Xuân Lộc không chỉ có cao su và chuối. Vườn Xuân Lộc sum suê nhiều trái cây khác như Sầu riêng, Chôm chôm, Măng cụt, Mít, café..Xuân Lộc có những anh hùng như Lê A, Hồ Thị Hương, Xuân Lộc có những địa danh khá nổi tiếng như Suối Tre, K.4, Xuân Lộc còn có rất nhiều con suối như Suối Rết, Suối Đỉa, Suối Chồn, Suối Tre. Địa xanh hành chính Xuân Lộc đều bắt đầu bằng chữ Xuân như Xuân An, Xuân Bình, Xuân Trung, Xuân Mỹ, Xuân Phú, Xuân Hòa…Nhà thơ tỏ ra không hiểu cặn kẽ đất Xuân Lộc, vì thế cái tình chung, niềm thương nhớ, trở nên giả tạo và sáo rỗng.
Bài thơ họa của Đăng Tâm không còn bóng dáng gì cuả Xuân Lộc. Xuân Lộc đâu có riêng điệu ru À-âu. Xuân Lộc là nơi tụ về của dân khắp bốn phương trời, đâu có điệu ru riêng. Xuân Bảo không có kỷ niệm gì ở Xuân Lộc, nhưng Đăng Tâm lại lưu luyến kỷ niệm, bạn đọc không rõ là kỷ niệm gì, có thể là kỷ niệm của Đăng Tâm với Xuân Bảo trong một lần nào đó ghé qua Xuân Lộc chăng? Bài thơ có chữ mà không có nội dung, hay nói cách khác, viết chỉ để cho có vần có chữ sao cho họa được câu chữ của Xuân Bảo, có khi Đăng Tâm không hề biết gì về Xuân Lộc cũng nên. Vì bài thơ không có nội dung, nên lời ru gợi nhớ đất chôn nhau thành ra giả tạo. Cả hai bài xướng và hoạ về Xuân Lộc đều là sáo ngữ, chưa bao giờ thơ lại hời hợt và vô bổ đến thế!!!.
THƠ HỌA, HỌA THƠ
Những bài thơ xướng - họa như thế này trong tập Tôi Đi Nhặt Bụi Vàng là thơ của những người bạn, xưng tụng nhau theo kiểu thơ thù tạc.
Ở tuổi cổ lai hy, có bạn thơ xướng họạ thù tạc, đó là một thú chơi tao nhã. Thơ xướng họa đòi hỏi tài năng và khẩu khí, đòi hỏi công phu và nhiều bài cũng ánh lên nét đẹp tài hoa. Xuân Bảo có thơ được đông đảo thi hữu họa vần, đó là một tín hiệu về sự đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu giữa những tri kỷ. Bài Văn Miếu Trấn Biên là một thí dụ
Văn miếu Trấn Biên rạng sử xanh
Tôn sư trọng đạo mãi tôn vinh
“Rồng chầu xứ Huế” vùng nhân kiệt
“Ngựa tế Đồng Nai” cõi địa linh
Đức Khổng cương thường ngời thế thái
Bác Hồ tư tưởng sáng nhân tình
Hiền tài hun đúc từ nguyên khí
Bia tạc tên vàng thật xứng danh
(Văn Miếu Trấn Biên- Xuân Bảo)
Bài họa của Tiêu Thanh Giang có tình ý hơn cả
Đồng Nai sông núi đượm màu xanh
Có Trấn Biên xưa thật hiển vinh
Văn Miếu ghi ơn người sáng lập
Khuê Văn khắc đức thánh uy linh
Ngày nay con cháu rèn tâm ý
Qúa khứ cha ông rạng nghiã tình
Thành kính dâng hương lòng ngưỡi mộ
Mong sao đạo học mãi lưu danh
(Trấn Biên Xưa-Tiêu Thanh Giang)
Tiêu Thanh Giang chỉ họa vần và lấy đại ý để viết một bài thơ khác về Trấn Biên theo nghĩ suy riêng của mình, không gò bó câu chữ để đối với bài của Xuân Bảo.
Thực ra bài của Xuân Bảo có nhiều chỗ cầu kỳ thành ra rất gượng ép, Xuân Bảo muốn dẫn người họa thơ vào tử địa mà bó tay phục tài. Bài xướng thì nên vậy. Nhưng bài xướng của Xuân Bảo lại lộ ra nhiều tử huyệt của tác giả.
Câu thứ 2 lặp hai chữ “tôn”, đó là sự nghèo nàn về vốn từ và khả năng diễn đạt.
Phép đảo trong câu (5) và (6) làm hỏng ý tứ. Lẽ ra phải viết “đạo cương thường của đức Khổng”, Xuân Bảo đã gượng ép mà viết “Đức Khổng cương thường”. Cũng vậy, lẽ ra phải viết :”Tư tưởng của Bác Hồ”, Xuân Bảo lại viết :” Bác Hồ tư tưởng”. Cấu trúc này hoàn toàn sai với ngữ pháp tiếng Việt, làm hỏng sự trong sáng của tiếng Việt, điều mà bác Hồ luôn nhắc nhở người cầm bút.
Trong ngữ nghĩa đời thường, chữ “ thế thái nhân tình” có nghĩa tiêu cực, chỉ thói xấu của người đời (Xin đọc Thế Thái Nhân Tình của Nguyễn Bỉnh Khiêm), Xuân Bảo lại đem vào đánh giá đạo đức Khổng Tử và tư tưởng Hồ Chí Minh. Rằng đạo đức của Khổng Tử và tư tưởng HCM sáng ngời thế thái nhân tình. Tức là làm sáng cái đức xấu? Nhà Nho xưa luôn chú tâm làm sáng cái đức sáng (“tại minh minh đức”).Tôi cho rằng đó là chỗ người làm thơ kém tinh tế về ngữ nghĩa của ngôn từ, chứ không phải là cố ý hạ thấp giá trị đạo đức tư tưởng của các bậc thánh hiền.
Bài của Tiêu Thanh Giang tỏ ra hiểu sâu sắc hơn giá trị của Văn Miếu Trấn Biên, tuy có tụng ca song thành tâm hơn đối với người xưa. Bài này hơn hẳn bài của Xuân Bảo cả về tình ý và nghệ thuật thơ.
HY VỌNG MUỘN MÀNG
Chúng ta biết thơ Đường độc đáo ở tứ thơ tư tưởng. Vẻ đẹp thơ Đường là vẻ đẹp trí tuệ. Dù kể việc , tả tình hay bộc lộ nghĩ suy, thơ Đường có khả năng để lại những dấu ấn không phai trong thi ca nhân loại. Xin đọc các bài Tuyệt Cú của Giả Đảo ; Đề Đô Thành Nam Trang của Thôi Hộ; Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, thơ Đỗ Phủ, Lý Bạch… ; Thu Vịnh, Thu Điếu, Thu Ẩm cuả Nguyễn Khuyến…)
Thơ Đường luật của Xuân Bảo không có được tố chất này. Dường như người làm thơ không hiểu được đặc trưng thi pháp thơ Đường (?), không nghĩ đến việc cách tân thơ Đường luật, như những nhà thơ tiền bối (từ Nguyễn Trãi đến Nguyễn Khuyến ) đã nỗ lực Việt hóa thơ Đường. Có lẽ XB làm thơ là để vui tuổi già, để thù tạc? Nếu vậy còn mong gì có thơ để góp tiếng nói với thời đại và lịch sử.
Xin chia sẻ với Xuân Bảo ý này của cụ Thanh Trúc (ghép bài của Thanh Trúc với bài của Xuân Bảo)
Tám chục xuân rồi hả?
Vui thơ quên tuổi già…
…Thân phận thật xót xa
Xa rồi thời trai trẻ.
Tháng 3. 2012
_________________________________________________
Tham khảo
Nhân Tình Thế Thái – Nguyễn Bỉnh Khiêm
Thế gian biến cải vũng nên đồi ;
Mặn, nhạt, chua cay, lẫn ngọt bùi.
Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử ;
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi.
Xưa nay đều trọng người chân-thực ;
Ai nấy nào ưa kẻ đãi-bôi[1].
Ở thế, mới hay người bạc ác :
Giàu thì tìm đến, khó tìm lui.
MÊNH MÔNG MỘT KHỐI TÌNH CHUNG
THƠ HỒNG PHƯƠNG,
MÊNH MÔNG MỘT KHỐI TÌNH CHUNG
(Đọc tập thơ Mênh Mông của Hồng Phương. Nxb Thanh Niên 2007& những bài thơ Hồng Phương tuyển chọn)
Bùi Công Thuấn
Nhà thơ Hồng Phương đặt tên cho tập thơ của mình là Mênh Mông hẳn đã gửi gắm trong đó một tấm lòng trước hiện thực mênh mông của đất nước trong suốt những năm tháng gian nan và bày tỏ những nghĩ suy tâm huyết về thời đại vẻ vang của dân tộc mình. “Máu xương hòa biển hòa sông/ ba mươi năm đánh giặc thấy mênh mông cuộc đời”(Cuộc Đời Mênh Mông). Phần thơ viết về Đất Nước, về quê hương, chiếm phần lớn số bài trong tập thơ (58/88 bài).
Đó là đất nước từ những ngày mùa thu tháng tám năm 1945 (Mùa Thu Tháng Tám), trải suốt 60 năm (Mừng Đất Nước Sáu Mươi Năm-Nhớ Lại), đất nước của những con người anh hùng, Gian Khổ Gì Bằng Lính Đặc Công, Máu Em Lai Láng Chị Sáng Vần Thơ, “Từ đấy, mẹ thờ thêm hai bát nhang/ Một bát thờ con chống Mỹ/ Một bát thờ chồng chống Pháp/ Mẹ không khóc/ Lưng mẹ còng theo thời gian”(Mẹ Cười Nghiêng), sự hy sinh lớn lao không thể kể hết được .”Khăn tang nào phủ hết mộ Trường Sơn”(Nhắc Nhở Nhau). Nhà thơ bày tỏ lòng ngưỡng mộ và tri ân sâu xa về Bác Hồ, về các chiến sĩ đặc công rừng Sác, về chiến khu D, về di tích Trung Ương Miền
Nhắc tên Bác lòng tự hào
Những lời Bác dạy con nào dám quên
Việt Nam – Bác là ông tiên
Giáng trần độ thế vạn niên ơn Người
(Bác là ông tiên)
Rừng Sác Cần Giuộc luồng, lạch, lau
Chặn đường Soài Riệp tuyến Lòng Tàu
Nơi đây tiếp sức Tàu Không Số
Xác giặc nay còn đắm biển sâu
(Gian Khổ Gì Bằng Lính Đặc Công)
Bùi ngùi kỷ niệm chiến khu D
Sốt núi, mưa nguồn, rắn, vắt, ve
Củ chụp, măng rừng tay súng chắc
Mồ chôn xác giặc-Một lời thề
(Bùi Ngùi Kỷ Niệm)
Thơ tình yêu của Hồng Phương cũng là thơ tình của lứa đôi chiến đấu. Họ hò hẹn rồi xa nhau, mong chờ và hy vọng.
…Vui lên nghe em con sông Hồng
Bên sông Vàm Cỏ
Mang nỗi niềm hai đầu thương nhớ…
Anh cứ mân mê chiếc áo mùa đông em đan gửi ra mặt trận
Ấm lòng người lính gác biên cương
Hậu phương tiền tuyến mặn nồng…
(Lời Ngọt Ngào)
Đất trời bao la mịt mùng bom đạn
Thắng trận đi tìm em- bặt vô âm tín
…Bao đêm rồi thao thức
Hy vọng ngày được gặp lại nhau
Kỷ niệm chiến tranh nhiểu quá thương đau..
(Thời Trai Trẻ)
Tuy vậy hầu hết thơ tình trong tập thơ này được viết theo thi pháp thơ Lãng Mạn 1930-1945 với hình ảnh tượng trưng. Cho đến nay thi pháp này đã trở nên lỗi thời, nhiều bài thơ tình của Hồng Phương trở nên cũ kỹ và sáo rỗng
Tình đầu rễ bám chắc hồn nhau
Nhụy đã trao hương vướng mạch sầu
Muốn chặt đứt cành chôn lấp lá
Dễ gì- càng lấp hố càng sâu
(Dễ Gì)
Ai hỏi tôi giờ ở đâu?
Tôi đang ở chốn không nhau
Chong đèn nhớ về một thuở
Những nẻo đường xưa lối cũ
Mênh mang thương nhớ một thời…
(Ai Hỏi Tôi)
Mong tắm mưa ngâu chẳng thấy về
Tình chàng ý thiếp cứ lê thê
Cầu Ô chưa bước đã gãy nhịp
Gửi lại sông Ngân một câu thề
Mưa ngâu không đến, đến mưa dầm
Tiếng pháo mừng xuân đành lặng câm
Vừa bước lên cầu ai rút ván
Bão lòng lại xoáy trong mưa đêm
(Chờ Mưa Ngâu)
Bạn trẻ hôm nay mà đọc những bài thơ tình như Chờ Mưa Ngâu, họ sẽ tự hỏi không biết nhà thơ định nói gì. Ý tứ vừa ước lệ, vừa quê mùa lộn xộn. Đang nói mưa ngâu tháng Bảy, lại liên tưởng đến tiếng pháo mừng Xuân. Cầu Ô chưa bước đã gãy thì ai “bước lên cầu”, “ai rút ván” ? Thành ngữ “qua cầu rút ván” trong dân gian có nghĩa không tốt, sao có thể dùng diễn tã tình Ngưu Lang - Chức Nữ? Câu thơ “mưa ngâu không đến, đến mưa dầm” không rõ chủ thể, rằng, em không đến vào lúc mưa ngâu mà lại đến lúc mưa dầm, hay nhà thơ mong chờ mưa ngâu, nhưng mưa ngâu không đến (mưa tình yêu) mà mưa dầm lại đến (mưa mùa, mưa cách trở). Những lời, những ý về “tình chàng ý thiếp”, mưa ngâu, sông Ngân, cầu Ô thước đã được khai thác cạn kiệt trong thơ cổ điển từ lâu lắm rồi.
Trong Chinh Phụ Ngâm (1741):
Khác gì ả Chức, chị Hằng
Bến Ngân sùi sụt, cung trăng chốc mòng
(câu 239-240)
Nọ thì ả Chức chàng Ngâu
Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông
(câu 331-332)
Đây là đoạn thư Đạm Thủy gửi cho Tố Tâm (tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách-1922): "Anh ơi, đêm hôm nay là đêm gì mà mưa gió âm thầm, góc trời đen nghịt, có phải mồng ba tháng bảy, là ngày ả Chức chàng Ngâu một năm mới thấy mặt nhau một lần không, anh nhỉ? Thảo nào mà chiều hôm nay em tiếp được thư anh, nhưng thư không phải là người, chỉ là ảnh và bút tích của người mà thôi, còn chàng Ngâu và ả Chức là người cả, chả biết rằng Ngưu Lang Chức Nữ những khi xa cách nhớ thương bên sông sùi sụt có oán hận những người đem sông Ngân mà chắn qua con đường ái ân không nhỉ?
Khi sử dụng lại một chất liệu nào đó, điều quan trọng là nhà thơ phải có những khám phá mới. Đó là quy luật của sự sáng tạo. Hồng Phương không có được năng lực này.
Rất nhiều bài thơ của Hồng Phương thiếu chất thơ. Dường như nó được viết theo quán tính, không được kết tinh từ ý thức sáng tạo nào. Tác giả nghĩ gì viết nấy, không câu chấp ngôn ngữ, không chú ý đến nhạc thơ. Năng lực kể chuyện trong thơ tự sự mờ nhạt. Nhân vật trữ tình không có tâm trạng. Ở thể loại thơ nào, Hồng Phương cũng không khai thác được đặc trưng thi pháp thể loại, dù là Lục Bát hay thơ Đường, thơ 7, 8 chữ như kiều thơ Lãng Mạn. Nhiều bài sáo rỗng, vô cảm, và cũ kỹ. Vì thế thơ Hồng Phương khó mà đọng lại trong lòng người đọc.
Xin đọc thơ Đường luật với những chất liệu quá cũ như xuân lan thu cúc, tùng bách, chị hằng, con nai ngơ ngác… gần như là một sự hỗn độn nháo nhào mọi thứ mà tác giả cóp nhặt được mà người đọc tinh ý có thể nhận ra nguồn.
Khéo vẽ bốn mùa núi biếc xa
Xuân lan thu cúc hạ liên hòa
Hạc hồng sải cánh vờn mây trắng
Tùng bách vươn cành ngắm suối ca
Chỉ cuốn luồn bay thêu lá cỏ
Kim tỳ năm ngón dệt cành hoa
Chị hằng lấp ló, nai ngơ ngác
Tia sáng gập ghềnh nỗi nhớ xa
(Tranh Thêu)
Thơ Lục Bát sai vần, ý tứ diễn tả phi logic làm người đọc ngơ ngẩn.
Cánh nhạn vượt mấy dòng sông
Giăng đường tơ nối tấm lòng đôi ta
Rơi rơi lệ thấm thư nhòa
Đầu lòng công chúa tên là Hiền Lương
Hoàng tử con tên Trung Thành
Gọi thế cho đẹp tấm lòng mẹ cha…
(Cháu Đích Tôn Thăm”Nhà” Ông)
Thơ 7 chữ sau đây, câu chữ chưa được chọn lọc, bỏ hẳn luật gieo vần , và dù người đọc có nghĩ đến những hình ảnh siêu thực cũng không hiểu nổi
Dưới ruộng đồng chiêm đất hoác miệng
Trên nương khoai héo bắp khô màu
Kênh nương nứt nẻ queo đường ruột
Chờ trộ mưa rào đỡ khát khao
Bất chợt cơn mưa đường biển vào
Nắng vàng đang trải cuốn mau mau
Hoa cười nụ héo liền ôm nhụy
Sóng lúa rập rờn mơn mởn rau
(Chờ Mưa)
Thật kỳ lạ. ruộng đồng chiêm đất hoác miệng, tức là đất khô hạn, nứt nẻ hoác ra, không một loài cây nào có thể mọc. Vậy mà chỉ một cơn mưa bất chợt đến là “Sóng lúa rập rờn mơn mởn rau”. Thật là một phép lạ! Chỉ một cơn mưa đến là cánh đồng nứt nẻ toang hoác ấy đã xanh tốt lúa dạt dào, gió thổi trên đồng lúa tạo nên những con sóng điệp trùng . Và lạ hơn nữa, trên cánh đồng “sóng lúa rập rờn” ấy, bỗng dưng rau ở đâu lại lọt vào cuối câu! Có lẽ tác giả cần viết them chú thích cho những điều lạ lùng như thế này thì may ra người đọc mới có thể tiếp cận bài thơ.
Có một hiện tượng hơi lạ trong thơ Hồng Phương là, nếu viết ở dạng bài thơ có nhạc có vần, thơ Hồng Phương không đứng được, nhưng khi bài thơ ấy chuyển sang thơ văn xuôi, người đọc lại thấy có hơi thơ. Bài Mẹ Cười Nghiêng sau đây in trong tập Mênh Mông ở dạng bài thơ, khi in lại trong tập thơ tuyển (bản photo), Hồng Phương viết dạng thơ văn xuôi
CƯỜI NGHIÊNG
Một đoạn đường cong con đi mẹ tiễn, tần ngần trên bến sông quê, chuyền tay con đôi dép lốp, nói gì con không nghe kịp, ngoái nhìn, mẹ quay mặt. Đò tròng trành, lòng con lòng mẹ cũng tròng trành. Mái chèo khua lỗi nhịp vỗ tan tác từng mảnh sao mờ.
Đêm đêm theo bóng một con đò, mẹ chờ giằng giặc.
Một cú sét! Hy sinh mặt trận phía Nam. Từ đây mẹ thờ thêm một bát nhang. Một bát thờ con chống Mỹ, một bát thờ chồng chống Pháp
Mẹ không khóc lưng mẹ còng theo thời gian
Mẹ cười nghiêng giữ lại thật lâu trong tâm tưởng hình bóng hai đảng viên Cộng Sản ngày ngày nghi nút khói nhang.
Mẹ luôn cười nghiêng!
Nói vậy để thấy Hồng Phương cũng đã trăn trở đối với thơ của mình. Bạn đọc có thể chia sẻ sự cố gắng của Hồng Phương trong bài Vào Viếng Lăng Bác, bản in đầu trong tập Mênh Mông (2007) và bản in sau trong tuyển tập (2012), mặc dù sự cố gắng ấy đã không đem đến hiệu quả nghệ thuật như người đọc mong đợi
KÍNH DÂNG BÁC MỘT TRỜI HOA
Vào lăng viếng Bác giữa mùa hoa
Đón Bác năm nào ngỡ sáng qua
Lặng lẽ bao người lau nước mắt
Ước gì dừng bước ngắm mặt cha
Ngàn thu ngon giấc mãi chẳng xa
Niềm vui Nam Bắc trọn một nhà
Cả nước thi đua học đức Bác
Lập công dâng Người một trời hoa 2007)
VÀO VIẾNG LĂNG BÁC
Vào lăng viếng Bác giữa mùa hoa
Đón Bác năm nào ngỡ sáng qua
Chầm chậm nghiêng đầu lau nước mắt
Kiễng chân ngoái mặt ngắm cha già
Chúng con ước nguyện noi gương sáng
Cả nước thi đua học đức cha
Mãi mãi ơn sâu tình nghĩa nặng
Đời đời tạc tượng ngắm Sơn Hà.
(2012)
Tôi thực sự ngạc nhiên về hồn thơ trong veo và tình yêu không mệt mỏi của Hồng Phương đối với thơ. Nếu được trau chuốt hơn, và được soi rọi bằng ánh sáng của một ý thức sáng tạo riêng, thơ của chị có thể sẽ đạt được những giá trị mà chị mong đợi.
Tháng 3. 2012
____________________________________
MÊNH MÔNG MỘT KHỐI TÌNH CHUNG
(Đọc tập thơ Mênh Mông của Hồng Phương. Nxb Thanh Niên 2007& những bài thơ Hồng Phương tuyển chọn)
Bùi Công Thuấn
Nhà thơ Hồng Phương đặt tên cho tập thơ của mình là Mênh Mông hẳn đã gửi gắm trong đó một tấm lòng trước hiện thực mênh mông của đất nước trong suốt những năm tháng gian nan và bày tỏ những nghĩ suy tâm huyết về thời đại vẻ vang của dân tộc mình. “Máu xương hòa biển hòa sông/ ba mươi năm đánh giặc thấy mênh mông cuộc đời”(Cuộc Đời Mênh Mông). Phần thơ viết về Đất Nước, về quê hương, chiếm phần lớn số bài trong tập thơ (58/88 bài).
Đó là đất nước từ những ngày mùa thu tháng tám năm 1945 (Mùa Thu Tháng Tám), trải suốt 60 năm (Mừng Đất Nước Sáu Mươi Năm-Nhớ Lại), đất nước của những con người anh hùng, Gian Khổ Gì Bằng Lính Đặc Công, Máu Em Lai Láng Chị Sáng Vần Thơ, “Từ đấy, mẹ thờ thêm hai bát nhang/ Một bát thờ con chống Mỹ/ Một bát thờ chồng chống Pháp/ Mẹ không khóc/ Lưng mẹ còng theo thời gian”(Mẹ Cười Nghiêng), sự hy sinh lớn lao không thể kể hết được .”Khăn tang nào phủ hết mộ Trường Sơn”(Nhắc Nhở Nhau). Nhà thơ bày tỏ lòng ngưỡng mộ và tri ân sâu xa về Bác Hồ, về các chiến sĩ đặc công rừng Sác, về chiến khu D, về di tích Trung Ương Miền
Nhắc tên Bác lòng tự hào
Những lời Bác dạy con nào dám quên
Việt Nam – Bác là ông tiên
Giáng trần độ thế vạn niên ơn Người
(Bác là ông tiên)
Rừng Sác Cần Giuộc luồng, lạch, lau
Chặn đường Soài Riệp tuyến Lòng Tàu
Nơi đây tiếp sức Tàu Không Số
Xác giặc nay còn đắm biển sâu
(Gian Khổ Gì Bằng Lính Đặc Công)
Bùi ngùi kỷ niệm chiến khu D
Sốt núi, mưa nguồn, rắn, vắt, ve
Củ chụp, măng rừng tay súng chắc
Mồ chôn xác giặc-Một lời thề
(Bùi Ngùi Kỷ Niệm)
Thơ tình yêu của Hồng Phương cũng là thơ tình của lứa đôi chiến đấu. Họ hò hẹn rồi xa nhau, mong chờ và hy vọng.
…Vui lên nghe em con sông Hồng
Bên sông Vàm Cỏ
Mang nỗi niềm hai đầu thương nhớ…
Anh cứ mân mê chiếc áo mùa đông em đan gửi ra mặt trận
Ấm lòng người lính gác biên cương
Hậu phương tiền tuyến mặn nồng…
(Lời Ngọt Ngào)
Đất trời bao la mịt mùng bom đạn
Thắng trận đi tìm em- bặt vô âm tín
…Bao đêm rồi thao thức
Hy vọng ngày được gặp lại nhau
Kỷ niệm chiến tranh nhiểu quá thương đau..
(Thời Trai Trẻ)
Tuy vậy hầu hết thơ tình trong tập thơ này được viết theo thi pháp thơ Lãng Mạn 1930-1945 với hình ảnh tượng trưng. Cho đến nay thi pháp này đã trở nên lỗi thời, nhiều bài thơ tình của Hồng Phương trở nên cũ kỹ và sáo rỗng
Tình đầu rễ bám chắc hồn nhau
Nhụy đã trao hương vướng mạch sầu
Muốn chặt đứt cành chôn lấp lá
Dễ gì- càng lấp hố càng sâu
(Dễ Gì)
Ai hỏi tôi giờ ở đâu?
Tôi đang ở chốn không nhau
Chong đèn nhớ về một thuở
Những nẻo đường xưa lối cũ
Mênh mang thương nhớ một thời…
(Ai Hỏi Tôi)
Mong tắm mưa ngâu chẳng thấy về
Tình chàng ý thiếp cứ lê thê
Cầu Ô chưa bước đã gãy nhịp
Gửi lại sông Ngân một câu thề
Mưa ngâu không đến, đến mưa dầm
Tiếng pháo mừng xuân đành lặng câm
Vừa bước lên cầu ai rút ván
Bão lòng lại xoáy trong mưa đêm
(Chờ Mưa Ngâu)
Bạn trẻ hôm nay mà đọc những bài thơ tình như Chờ Mưa Ngâu, họ sẽ tự hỏi không biết nhà thơ định nói gì. Ý tứ vừa ước lệ, vừa quê mùa lộn xộn. Đang nói mưa ngâu tháng Bảy, lại liên tưởng đến tiếng pháo mừng Xuân. Cầu Ô chưa bước đã gãy thì ai “bước lên cầu”, “ai rút ván” ? Thành ngữ “qua cầu rút ván” trong dân gian có nghĩa không tốt, sao có thể dùng diễn tã tình Ngưu Lang - Chức Nữ? Câu thơ “mưa ngâu không đến, đến mưa dầm” không rõ chủ thể, rằng, em không đến vào lúc mưa ngâu mà lại đến lúc mưa dầm, hay nhà thơ mong chờ mưa ngâu, nhưng mưa ngâu không đến (mưa tình yêu) mà mưa dầm lại đến (mưa mùa, mưa cách trở). Những lời, những ý về “tình chàng ý thiếp”, mưa ngâu, sông Ngân, cầu Ô thước đã được khai thác cạn kiệt trong thơ cổ điển từ lâu lắm rồi.
Trong Chinh Phụ Ngâm (1741):
Khác gì ả Chức, chị Hằng
Bến Ngân sùi sụt, cung trăng chốc mòng
(câu 239-240)
Nọ thì ả Chức chàng Ngâu
Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông
(câu 331-332)
Đây là đoạn thư Đạm Thủy gửi cho Tố Tâm (tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách-1922): "Anh ơi, đêm hôm nay là đêm gì mà mưa gió âm thầm, góc trời đen nghịt, có phải mồng ba tháng bảy, là ngày ả Chức chàng Ngâu một năm mới thấy mặt nhau một lần không, anh nhỉ? Thảo nào mà chiều hôm nay em tiếp được thư anh, nhưng thư không phải là người, chỉ là ảnh và bút tích của người mà thôi, còn chàng Ngâu và ả Chức là người cả, chả biết rằng Ngưu Lang Chức Nữ những khi xa cách nhớ thương bên sông sùi sụt có oán hận những người đem sông Ngân mà chắn qua con đường ái ân không nhỉ?
Khi sử dụng lại một chất liệu nào đó, điều quan trọng là nhà thơ phải có những khám phá mới. Đó là quy luật của sự sáng tạo. Hồng Phương không có được năng lực này.
Rất nhiều bài thơ của Hồng Phương thiếu chất thơ. Dường như nó được viết theo quán tính, không được kết tinh từ ý thức sáng tạo nào. Tác giả nghĩ gì viết nấy, không câu chấp ngôn ngữ, không chú ý đến nhạc thơ. Năng lực kể chuyện trong thơ tự sự mờ nhạt. Nhân vật trữ tình không có tâm trạng. Ở thể loại thơ nào, Hồng Phương cũng không khai thác được đặc trưng thi pháp thể loại, dù là Lục Bát hay thơ Đường, thơ 7, 8 chữ như kiều thơ Lãng Mạn. Nhiều bài sáo rỗng, vô cảm, và cũ kỹ. Vì thế thơ Hồng Phương khó mà đọng lại trong lòng người đọc.
Xin đọc thơ Đường luật với những chất liệu quá cũ như xuân lan thu cúc, tùng bách, chị hằng, con nai ngơ ngác… gần như là một sự hỗn độn nháo nhào mọi thứ mà tác giả cóp nhặt được mà người đọc tinh ý có thể nhận ra nguồn.
Khéo vẽ bốn mùa núi biếc xa
Xuân lan thu cúc hạ liên hòa
Hạc hồng sải cánh vờn mây trắng
Tùng bách vươn cành ngắm suối ca
Chỉ cuốn luồn bay thêu lá cỏ
Kim tỳ năm ngón dệt cành hoa
Chị hằng lấp ló, nai ngơ ngác
Tia sáng gập ghềnh nỗi nhớ xa
(Tranh Thêu)
Thơ Lục Bát sai vần, ý tứ diễn tả phi logic làm người đọc ngơ ngẩn.
Cánh nhạn vượt mấy dòng sông
Giăng đường tơ nối tấm lòng đôi ta
Rơi rơi lệ thấm thư nhòa
Đầu lòng công chúa tên là Hiền Lương
Hoàng tử con tên Trung Thành
Gọi thế cho đẹp tấm lòng mẹ cha…
(Cháu Đích Tôn Thăm”Nhà” Ông)
Thơ 7 chữ sau đây, câu chữ chưa được chọn lọc, bỏ hẳn luật gieo vần , và dù người đọc có nghĩ đến những hình ảnh siêu thực cũng không hiểu nổi
Dưới ruộng đồng chiêm đất hoác miệng
Trên nương khoai héo bắp khô màu
Kênh nương nứt nẻ queo đường ruột
Chờ trộ mưa rào đỡ khát khao
Bất chợt cơn mưa đường biển vào
Nắng vàng đang trải cuốn mau mau
Hoa cười nụ héo liền ôm nhụy
Sóng lúa rập rờn mơn mởn rau
(Chờ Mưa)
Thật kỳ lạ. ruộng đồng chiêm đất hoác miệng, tức là đất khô hạn, nứt nẻ hoác ra, không một loài cây nào có thể mọc. Vậy mà chỉ một cơn mưa bất chợt đến là “Sóng lúa rập rờn mơn mởn rau”. Thật là một phép lạ! Chỉ một cơn mưa đến là cánh đồng nứt nẻ toang hoác ấy đã xanh tốt lúa dạt dào, gió thổi trên đồng lúa tạo nên những con sóng điệp trùng . Và lạ hơn nữa, trên cánh đồng “sóng lúa rập rờn” ấy, bỗng dưng rau ở đâu lại lọt vào cuối câu! Có lẽ tác giả cần viết them chú thích cho những điều lạ lùng như thế này thì may ra người đọc mới có thể tiếp cận bài thơ.
Có một hiện tượng hơi lạ trong thơ Hồng Phương là, nếu viết ở dạng bài thơ có nhạc có vần, thơ Hồng Phương không đứng được, nhưng khi bài thơ ấy chuyển sang thơ văn xuôi, người đọc lại thấy có hơi thơ. Bài Mẹ Cười Nghiêng sau đây in trong tập Mênh Mông ở dạng bài thơ, khi in lại trong tập thơ tuyển (bản photo), Hồng Phương viết dạng thơ văn xuôi
CƯỜI NGHIÊNG
Một đoạn đường cong con đi mẹ tiễn, tần ngần trên bến sông quê, chuyền tay con đôi dép lốp, nói gì con không nghe kịp, ngoái nhìn, mẹ quay mặt. Đò tròng trành, lòng con lòng mẹ cũng tròng trành. Mái chèo khua lỗi nhịp vỗ tan tác từng mảnh sao mờ.
Đêm đêm theo bóng một con đò, mẹ chờ giằng giặc.
Một cú sét! Hy sinh mặt trận phía Nam. Từ đây mẹ thờ thêm một bát nhang. Một bát thờ con chống Mỹ, một bát thờ chồng chống Pháp
Mẹ không khóc lưng mẹ còng theo thời gian
Mẹ cười nghiêng giữ lại thật lâu trong tâm tưởng hình bóng hai đảng viên Cộng Sản ngày ngày nghi nút khói nhang.
Mẹ luôn cười nghiêng!
Nói vậy để thấy Hồng Phương cũng đã trăn trở đối với thơ của mình. Bạn đọc có thể chia sẻ sự cố gắng của Hồng Phương trong bài Vào Viếng Lăng Bác, bản in đầu trong tập Mênh Mông (2007) và bản in sau trong tuyển tập (2012), mặc dù sự cố gắng ấy đã không đem đến hiệu quả nghệ thuật như người đọc mong đợi
KÍNH DÂNG BÁC MỘT TRỜI HOA
Vào lăng viếng Bác giữa mùa hoa
Đón Bác năm nào ngỡ sáng qua
Lặng lẽ bao người lau nước mắt
Ước gì dừng bước ngắm mặt cha
Ngàn thu ngon giấc mãi chẳng xa
Niềm vui Nam Bắc trọn một nhà
Cả nước thi đua học đức Bác
Lập công dâng Người một trời hoa 2007)
VÀO VIẾNG LĂNG BÁC
Vào lăng viếng Bác giữa mùa hoa
Đón Bác năm nào ngỡ sáng qua
Chầm chậm nghiêng đầu lau nước mắt
Kiễng chân ngoái mặt ngắm cha già
Chúng con ước nguyện noi gương sáng
Cả nước thi đua học đức cha
Mãi mãi ơn sâu tình nghĩa nặng
Đời đời tạc tượng ngắm Sơn Hà.
(2012)
Tôi thực sự ngạc nhiên về hồn thơ trong veo và tình yêu không mệt mỏi của Hồng Phương đối với thơ. Nếu được trau chuốt hơn, và được soi rọi bằng ánh sáng của một ý thức sáng tạo riêng, thơ của chị có thể sẽ đạt được những giá trị mà chị mong đợi.
Tháng 3. 2012
____________________________________
GIỮA XA XĂM ĐỢI CHỜ
GIỮA XA XĂM ĐỢI CHỜ
(Đọc tập thơ Tự Tình của Hoàng Đình Nguyễn.Nxb Hội Nhà Văn 2011)
Bùi Công Thuấn
1.Một hồn thơ giàu nặng nghĩa tình
Đọc tâm tình của những người “bạn vàng” viết cho Hoàng Đình Nguyễn (HĐN), tôi hiểu anh là người đã trải qua cuộc kháng chiến chống Mỹ suốt từ Nam chí Bắc. Anh đã sống trong tình thương yêu của gia đình, đồng đội. Tình quê hương, tình gia đình, nghĩa tình cách mạng ở anh sâu nặng. Trong bài thơ Kỷ Niệm Một Dòng Sông, anh đã ghi lại cái ơn cứu sinh của một bà mẹ nhân dân
“Tôi ngoi lên từ dòng sông ấy
Mưa giăng giăng phủ kín đất trời
Sau trận tập kích phá đồn tôi lạc xa đồng đội
Giữa đêm mưa mịt mùng và bởi nhửng vết thương
Tôi như cánh chim lạc hướng giữa đường…
Tôi tỉnh lại với bao điều khác lạ
Căn nhà nhỏ tối om, bóng hình một bà má.
Leo lét ngọn đèn dầu, không soi rõ mặt nhau.
Vết thương trên người được băng bó đã lâu.
Tôi lại được sống
Giựa tình thương của má
Những bà má giống mẹ tôi nhọc nhằn vất vả
Nhưng tình thương yêu vô bến vô bờ
(Kỷ Niệm Một Dòng Sông – 2007)
Vì thế những bài thơ anh viết về Cha (Trước Mộ Ba), về mẹ (Nhớ Mẹ, Má Ơi), về quê hương (Mùa Thu Ngày Ấy Bây Giờ) để lại được dấu ấn trong lòng người đọc về một hồn thơ có chiều sâu của tình tự dân tộc và cách mạng.
…Mùa thu ấy quê mình rực rỡ cờ sao
Những người lính nông dân chân chất hôm nào
Đã nắm chặt tay thề một long với Đảng
Đi suốt cuộc trường chinh
Kháng chiến trường kỳ…
(Mùa Thu Ngày Ấy Bây Giờ-2009)
2. Tình thơ yêu mãi ngàn sau
Nhưng mảng thơ đậm nhất trong Tự Tình là mảng thơ tình.
Đó là mối tình đầu đã xa, một mối tình đơn phương (?) chưa có nhiểu kỷ niệm ngoài một lần hẹn hò (Buổi Hẹn Đầu), một mối tình không thành, nhưng vẫn đời chờ, vẫn trăn trở tra hỏi, vẫn ước mơ vô vọng. Một cuộc tình làm người thơ ngẩn ngơ trước con đò, bến sông và thao thức khôn nguôi trong tâm thức. Thời gian và không gian càng xa thì cuộc tình ấy lại càng trói chặt trái tim mà vết thương tâm, không sao may vá được. Vì thế người thơ như người mộng du trong cõi thực, cứ đi tìm một bóng hình hư ảo, tuy hư ảo nhưng lại cụ thể trong từng bước chân, từng hơi thở. Rồi chợt giật nhận ra mình cô độc suốt cõi nhân sinh mải mê đi kiếm tìm cái bóng của chính mình
Nhớ em
con nước xốn xang
đò xưa bến cũ mang mang nỗi buồn
(Mong Manh Chờ Đợi)
Ngàn năm cho đến mai sau
Vẫn còn nhớ mối tình đầu mong manh…
(Tự Tình)
Buổi chiều đứng giữa chơi vơi
Lặng thầm cúi nhặt bóng tôi bên người
Đã qua cuối đất cùng trời
Trở về chết lặng
lở bổi sông quê
(Chuyện Xưa)
Em chợt đến
Rồi chợt đi
Chút hư vô
Còn để lại
Có một ngày
Trong xa ngái
Kẻ mộng du
Lặng lẽ tìm…
(Mộng Du)
..Em là gió là giông
Em là mưa là bão
Em là gì trong tôi
Thật hay là hư ảo
(Em Là)
Bạn đọc nào đã trải nghiệm một cuộc tình như vậy có thể chia sẻ với HĐN những thảng thốt trong tận đáy sâu tâm thức của mình về một cuộc tình như lửa cháy mỗi khi bắt gặp một hình ảnh nào đó của quá khứ. Một chút nắng phai, một thoáng gió hiu hiu, một tiếng ầu ơ cuối chiều cũng nặng trĩu nhớ thương.
Nắng thôi trải bạc đồng rồi
Ai ngồi hát khúc ầu ơ cuối chiều
Đường làng gió thổi hiu hiu
Ai ngồi ai nhớ
Ai yêu. Ai chờ…
(Cuối Chiều)
HĐN có nhiều tứ thơ hay ở mảng thơ này trên cái nền dòng sông, cánh đồng, bến đò xưa với nỗi nhớ, sự chờ mong, trăn trở mệt nhoài trong cõi sống và cõi vô biên
Về quê ngang bến sông xưa
Lặng nghe ngọn gió
Trong mưa bồi hồi
Sông quê
Bên lở bên bồi
Cắm sào cúi nhặt bóng tôi thuở nào
(Sông Quê)
Trăng già rụng xuống sông quê
Con đom đóm sáng vụng về lẻ loi
(Em Về)
Nhớ em
Con nước xốn xang
Đò xưa bến cũ mang mang nỗi buồn
Ngồi nhìn vệt nắng mà thương
Liu xiu gió thoảng
Mùi hương bay về
(Mong Manh Chờ Đợi)
3.Thơ Hoàng Đình Nguyễn không mới
Những tứ thơ mới, đẹp và giàu sức sáng tạo trong thơ HĐN không có nhiều. HĐN nói rằng ”Thơ của tôi là tiếng nói của lòng tôi… Thơ còn mãi / những tình yêu/ những nỗi nhớ/ Những vui buồn”. Vâng , có lẽ anh làm thơ là để đáp ứng tiếng lòng sâu thẳm thao thức của mình, vì thế anh ít chú ý tìm kiếm những tứ thơ mới, cũng không chú ý đến cách tân nghệ thuật, tìm kiếm những cách thể hiện mới. Anh làm thơ như tự nhiên trong lòng bật ra những nghĩ suy là vậy.
Thơ anh chủ yếu là thơ suy nghĩ. Cái hay của thơ suy tưởng (thí dụ thơ Chế Lan Viên) là ở sự khám phá hình ảnh và tư tưởng, ở sự đào sâu hiện thực và đào sâu suy tư về hiện thực ấy dựa trên những tư tưởng lớn, tư tưởng tiến bộ. Thơ HĐN là thơ suy nghĩ nhưng lại không có tư tưởng, thành ra những gì anh tỏ lộ trở nên nhẹ tênh, và kiểu tư duy nghệ thuật của anh cũng cũ như vậy.
Đã quá nhiều người viết về tình yêu, Tự Tình là tập thơ tình yêu, nhưng HĐN không có khám phá gì mới tâm trạng yêu. Những trải nghiệm tình yêu trong thơ anh rất nghèo nàn (quanh quẩn chỉ là nhớ, mong, cô đơn). Hình tượng, tứ thơ để thể hiện tình yêu trong thơ anh cũng chỉ là dòng sông quê, con đò, cánh đồng chiều, cánh cò lẻ loi.
Tìm em
ở giữa cánh đồng
lao xao cò trắng
Bên dòng sông quê
(Tìm em)
Tuy khổ thơ có hình ảnh, nhưng đó cũng chỉ là những khái niệm, không phải là hình ảnh biểu cảm của thơ. Một cánh đồng chung chung, không rõ là đồng miền Bắc hay đồng miền Nam. Cò trắng và dòng sông quê cũng siêu hình như cánh đồng vậy, không có gì là cụ thể, là nơi hò hẹn, gắn bó kỷ niệm của nhà thơ. Những hình ảnh như thế không đủ sức gây ấn tượng cho người đọc, bởi cánh đồng, con cò, dòng sông đã là chất liệu được khai thác cạn kiệt rồi. Những nhà thơ khác có một con sông nghệ thuật cụ thể. Sông của Nguyễn Đình Thi là sông đỏ: “những dòng sông đỏ nặng phù sa”. Tế Hanh có dòng sông xanh:”Quê hương tôi có con sông xanh biếc/ nước gương trong soi tóc những hàng tre”. Hoàn Cầm có dòng sông nghiêng: ”Sông Đuống trôi đi/một dòng lấp lánh/ nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”…
HĐN cũng dùng lại tất cả những ý tứ, ngôn từ người khác đã dùng, đến nỗi con chữ trở nên trơ trơ, câu thơ có vỏ chữ mà không có nghĩa, không tải được hồn, không có chút lửa nào đủ sức đốt cháy cảm xúc người đọc. Những chữ sau đây đã quá mòn sáo : nỗi nhớ, đợi chờ, trở về, nắng gió, dông bão, bến bờ, , lá vàng, lá rụng, bến sông trưa, bến sông trăng (chữ của Hàn Mặc Tử), bến sông xưa, buồn tênh, trống vắng, mộng mơ, bơ vơ, xa xăm đợi chờ, tháng năm đợi chờ, nắng gió xôn xao (tên bài hát : Ngõ Vắng Xôn Xao). Chỉ riêng bài Tôi Tìm Tôi HĐN lặp lại 3 lần chữ “mênh mông”. Đọc thơ HĐN, người đọc không thể hình dung ra khuôn mặt thơ HĐN, bởi thơ anh quá cũ. Anh có kỹ thuật thơ điêu luyện nhưng lại hạn chế trong năng lực sáng tạo, và không có những tìm tòi mới về nghệ thuật thể hiện.
Bài thơ sau đây chỉ là suy nghĩ đơn thuần viết dưới dạng văn vần, không phải thơ.
Đôi lúc ngồi buồn tênh
Ngẫm sự đời mà chán
Tự bảo mình cố quên
Để cho lòng thanh thản
Đôi khi trong hoạn nạn
Mới hiều nhau ngọn ngành
Ai chung tình, ai bạn
Giữa rừng người vây quanh
Khi tuổi già vừa đến
Thấy yêu hơn cuộc đời
Làm thơ và tán chuyện
Trải lòg vào xa xôi…
Ngày nào đó bạn ơi
Nếu thấy lòng trống vắng
Hãy tâm tình cùng tôi…
Xin đừng ngồi im lặng
(Cùng Tôi)
Tôi nói không phải thơ bởi vì bài thơ Cùng Tôi chỉ là suy nghĩ, diễn đạt bằng ngôn ngữ ý niệm, không có một tứ thơ nào. Câu thơ là câu văn xuôi, câu thơ báo chí chuyển tải một nghĩa tường minh, nghĩa thông tin, thiếu hẳn nghĩa biểu cảm, nghĩa hình tượng, nghĩa phong cách. Đặc trưng của ngôn ngữ văn chương là tính đa nghĩa, tính biểu cảm, tính hình tượng và tính phong cách. Khá nhiều bài trong tập Tự Tình có ngôn ngữ ở dạng này, ngôn ngữ ý niệm, ngôn ngữ thông tin, không phải ngôn ngữ nghệ thuật (Lữ Khách, Tuổi Trẻ Tôi, Thơ Tôi, Người Hát Thơ Đồ Chiểu Nơi Bến Phà, Trở Lại Với Dòng Sông, Tôi Tìm Tôi, Bỏ Lại Tuổi Thơ, Tôi và Anh, Điều Chưa Nói hết Tượng Đài…) , và vì thế những gì anh tỏ lộ rất ít chất thơ. Người đọc khó mà cảm nhận và nâng niu thơ anh được, mặc dù có thể chia sẻ với anh vài suy nghĩ nào đó. Đó là điều rất tiếc đối với một hồn thơ sâu nặng dào dạt nghĩa tình như anh.
Xin lưu ý bạn đọc về ý thức sáng tạo của HĐN trong bài Thơ Tôi :” Thơ là nhân chứng của thời gian/ Là nhật ký, là chứng từ/ Là hóa đơn cuộc sống/Là yêu thương/ Và lòng căm giận…” HĐN không bận tâm đến nghệ thuật thơ là vậy.
Tháng 3. 2012
___________________________
(Đọc tập thơ Tự Tình của Hoàng Đình Nguyễn.Nxb Hội Nhà Văn 2011)
Bùi Công Thuấn
1.Một hồn thơ giàu nặng nghĩa tình
Đọc tâm tình của những người “bạn vàng” viết cho Hoàng Đình Nguyễn (HĐN), tôi hiểu anh là người đã trải qua cuộc kháng chiến chống Mỹ suốt từ Nam chí Bắc. Anh đã sống trong tình thương yêu của gia đình, đồng đội. Tình quê hương, tình gia đình, nghĩa tình cách mạng ở anh sâu nặng. Trong bài thơ Kỷ Niệm Một Dòng Sông, anh đã ghi lại cái ơn cứu sinh của một bà mẹ nhân dân
“Tôi ngoi lên từ dòng sông ấy
Mưa giăng giăng phủ kín đất trời
Sau trận tập kích phá đồn tôi lạc xa đồng đội
Giữa đêm mưa mịt mùng và bởi nhửng vết thương
Tôi như cánh chim lạc hướng giữa đường…
Tôi tỉnh lại với bao điều khác lạ
Căn nhà nhỏ tối om, bóng hình một bà má.
Leo lét ngọn đèn dầu, không soi rõ mặt nhau.
Vết thương trên người được băng bó đã lâu.
Tôi lại được sống
Giựa tình thương của má
Những bà má giống mẹ tôi nhọc nhằn vất vả
Nhưng tình thương yêu vô bến vô bờ
(Kỷ Niệm Một Dòng Sông – 2007)
Vì thế những bài thơ anh viết về Cha (Trước Mộ Ba), về mẹ (Nhớ Mẹ, Má Ơi), về quê hương (Mùa Thu Ngày Ấy Bây Giờ) để lại được dấu ấn trong lòng người đọc về một hồn thơ có chiều sâu của tình tự dân tộc và cách mạng.
…Mùa thu ấy quê mình rực rỡ cờ sao
Những người lính nông dân chân chất hôm nào
Đã nắm chặt tay thề một long với Đảng
Đi suốt cuộc trường chinh
Kháng chiến trường kỳ…
(Mùa Thu Ngày Ấy Bây Giờ-2009)
2. Tình thơ yêu mãi ngàn sau
Nhưng mảng thơ đậm nhất trong Tự Tình là mảng thơ tình.
Đó là mối tình đầu đã xa, một mối tình đơn phương (?) chưa có nhiểu kỷ niệm ngoài một lần hẹn hò (Buổi Hẹn Đầu), một mối tình không thành, nhưng vẫn đời chờ, vẫn trăn trở tra hỏi, vẫn ước mơ vô vọng. Một cuộc tình làm người thơ ngẩn ngơ trước con đò, bến sông và thao thức khôn nguôi trong tâm thức. Thời gian và không gian càng xa thì cuộc tình ấy lại càng trói chặt trái tim mà vết thương tâm, không sao may vá được. Vì thế người thơ như người mộng du trong cõi thực, cứ đi tìm một bóng hình hư ảo, tuy hư ảo nhưng lại cụ thể trong từng bước chân, từng hơi thở. Rồi chợt giật nhận ra mình cô độc suốt cõi nhân sinh mải mê đi kiếm tìm cái bóng của chính mình
Nhớ em
con nước xốn xang
đò xưa bến cũ mang mang nỗi buồn
(Mong Manh Chờ Đợi)
Ngàn năm cho đến mai sau
Vẫn còn nhớ mối tình đầu mong manh…
(Tự Tình)
Buổi chiều đứng giữa chơi vơi
Lặng thầm cúi nhặt bóng tôi bên người
Đã qua cuối đất cùng trời
Trở về chết lặng
lở bổi sông quê
(Chuyện Xưa)
Em chợt đến
Rồi chợt đi
Chút hư vô
Còn để lại
Có một ngày
Trong xa ngái
Kẻ mộng du
Lặng lẽ tìm…
(Mộng Du)
..Em là gió là giông
Em là mưa là bão
Em là gì trong tôi
Thật hay là hư ảo
(Em Là)
Bạn đọc nào đã trải nghiệm một cuộc tình như vậy có thể chia sẻ với HĐN những thảng thốt trong tận đáy sâu tâm thức của mình về một cuộc tình như lửa cháy mỗi khi bắt gặp một hình ảnh nào đó của quá khứ. Một chút nắng phai, một thoáng gió hiu hiu, một tiếng ầu ơ cuối chiều cũng nặng trĩu nhớ thương.
Nắng thôi trải bạc đồng rồi
Ai ngồi hát khúc ầu ơ cuối chiều
Đường làng gió thổi hiu hiu
Ai ngồi ai nhớ
Ai yêu. Ai chờ…
(Cuối Chiều)
HĐN có nhiều tứ thơ hay ở mảng thơ này trên cái nền dòng sông, cánh đồng, bến đò xưa với nỗi nhớ, sự chờ mong, trăn trở mệt nhoài trong cõi sống và cõi vô biên
Về quê ngang bến sông xưa
Lặng nghe ngọn gió
Trong mưa bồi hồi
Sông quê
Bên lở bên bồi
Cắm sào cúi nhặt bóng tôi thuở nào
(Sông Quê)
Trăng già rụng xuống sông quê
Con đom đóm sáng vụng về lẻ loi
(Em Về)
Nhớ em
Con nước xốn xang
Đò xưa bến cũ mang mang nỗi buồn
Ngồi nhìn vệt nắng mà thương
Liu xiu gió thoảng
Mùi hương bay về
(Mong Manh Chờ Đợi)
3.Thơ Hoàng Đình Nguyễn không mới
Những tứ thơ mới, đẹp và giàu sức sáng tạo trong thơ HĐN không có nhiều. HĐN nói rằng ”Thơ của tôi là tiếng nói của lòng tôi… Thơ còn mãi / những tình yêu/ những nỗi nhớ/ Những vui buồn”. Vâng , có lẽ anh làm thơ là để đáp ứng tiếng lòng sâu thẳm thao thức của mình, vì thế anh ít chú ý tìm kiếm những tứ thơ mới, cũng không chú ý đến cách tân nghệ thuật, tìm kiếm những cách thể hiện mới. Anh làm thơ như tự nhiên trong lòng bật ra những nghĩ suy là vậy.
Thơ anh chủ yếu là thơ suy nghĩ. Cái hay của thơ suy tưởng (thí dụ thơ Chế Lan Viên) là ở sự khám phá hình ảnh và tư tưởng, ở sự đào sâu hiện thực và đào sâu suy tư về hiện thực ấy dựa trên những tư tưởng lớn, tư tưởng tiến bộ. Thơ HĐN là thơ suy nghĩ nhưng lại không có tư tưởng, thành ra những gì anh tỏ lộ trở nên nhẹ tênh, và kiểu tư duy nghệ thuật của anh cũng cũ như vậy.
Đã quá nhiều người viết về tình yêu, Tự Tình là tập thơ tình yêu, nhưng HĐN không có khám phá gì mới tâm trạng yêu. Những trải nghiệm tình yêu trong thơ anh rất nghèo nàn (quanh quẩn chỉ là nhớ, mong, cô đơn). Hình tượng, tứ thơ để thể hiện tình yêu trong thơ anh cũng chỉ là dòng sông quê, con đò, cánh đồng chiều, cánh cò lẻ loi.
Tìm em
ở giữa cánh đồng
lao xao cò trắng
Bên dòng sông quê
(Tìm em)
Tuy khổ thơ có hình ảnh, nhưng đó cũng chỉ là những khái niệm, không phải là hình ảnh biểu cảm của thơ. Một cánh đồng chung chung, không rõ là đồng miền Bắc hay đồng miền Nam. Cò trắng và dòng sông quê cũng siêu hình như cánh đồng vậy, không có gì là cụ thể, là nơi hò hẹn, gắn bó kỷ niệm của nhà thơ. Những hình ảnh như thế không đủ sức gây ấn tượng cho người đọc, bởi cánh đồng, con cò, dòng sông đã là chất liệu được khai thác cạn kiệt rồi. Những nhà thơ khác có một con sông nghệ thuật cụ thể. Sông của Nguyễn Đình Thi là sông đỏ: “những dòng sông đỏ nặng phù sa”. Tế Hanh có dòng sông xanh:”Quê hương tôi có con sông xanh biếc/ nước gương trong soi tóc những hàng tre”. Hoàn Cầm có dòng sông nghiêng: ”Sông Đuống trôi đi/một dòng lấp lánh/ nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”…
HĐN cũng dùng lại tất cả những ý tứ, ngôn từ người khác đã dùng, đến nỗi con chữ trở nên trơ trơ, câu thơ có vỏ chữ mà không có nghĩa, không tải được hồn, không có chút lửa nào đủ sức đốt cháy cảm xúc người đọc. Những chữ sau đây đã quá mòn sáo : nỗi nhớ, đợi chờ, trở về, nắng gió, dông bão, bến bờ, , lá vàng, lá rụng, bến sông trưa, bến sông trăng (chữ của Hàn Mặc Tử), bến sông xưa, buồn tênh, trống vắng, mộng mơ, bơ vơ, xa xăm đợi chờ, tháng năm đợi chờ, nắng gió xôn xao (tên bài hát : Ngõ Vắng Xôn Xao). Chỉ riêng bài Tôi Tìm Tôi HĐN lặp lại 3 lần chữ “mênh mông”. Đọc thơ HĐN, người đọc không thể hình dung ra khuôn mặt thơ HĐN, bởi thơ anh quá cũ. Anh có kỹ thuật thơ điêu luyện nhưng lại hạn chế trong năng lực sáng tạo, và không có những tìm tòi mới về nghệ thuật thể hiện.
Bài thơ sau đây chỉ là suy nghĩ đơn thuần viết dưới dạng văn vần, không phải thơ.
Đôi lúc ngồi buồn tênh
Ngẫm sự đời mà chán
Tự bảo mình cố quên
Để cho lòng thanh thản
Đôi khi trong hoạn nạn
Mới hiều nhau ngọn ngành
Ai chung tình, ai bạn
Giữa rừng người vây quanh
Khi tuổi già vừa đến
Thấy yêu hơn cuộc đời
Làm thơ và tán chuyện
Trải lòg vào xa xôi…
Ngày nào đó bạn ơi
Nếu thấy lòng trống vắng
Hãy tâm tình cùng tôi…
Xin đừng ngồi im lặng
(Cùng Tôi)
Tôi nói không phải thơ bởi vì bài thơ Cùng Tôi chỉ là suy nghĩ, diễn đạt bằng ngôn ngữ ý niệm, không có một tứ thơ nào. Câu thơ là câu văn xuôi, câu thơ báo chí chuyển tải một nghĩa tường minh, nghĩa thông tin, thiếu hẳn nghĩa biểu cảm, nghĩa hình tượng, nghĩa phong cách. Đặc trưng của ngôn ngữ văn chương là tính đa nghĩa, tính biểu cảm, tính hình tượng và tính phong cách. Khá nhiều bài trong tập Tự Tình có ngôn ngữ ở dạng này, ngôn ngữ ý niệm, ngôn ngữ thông tin, không phải ngôn ngữ nghệ thuật (Lữ Khách, Tuổi Trẻ Tôi, Thơ Tôi, Người Hát Thơ Đồ Chiểu Nơi Bến Phà, Trở Lại Với Dòng Sông, Tôi Tìm Tôi, Bỏ Lại Tuổi Thơ, Tôi và Anh, Điều Chưa Nói hết Tượng Đài…) , và vì thế những gì anh tỏ lộ rất ít chất thơ. Người đọc khó mà cảm nhận và nâng niu thơ anh được, mặc dù có thể chia sẻ với anh vài suy nghĩ nào đó. Đó là điều rất tiếc đối với một hồn thơ sâu nặng dào dạt nghĩa tình như anh.
Xin lưu ý bạn đọc về ý thức sáng tạo của HĐN trong bài Thơ Tôi :” Thơ là nhân chứng của thời gian/ Là nhật ký, là chứng từ/ Là hóa đơn cuộc sống/Là yêu thương/ Và lòng căm giận…” HĐN không bận tâm đến nghệ thuật thơ là vậy.
Tháng 3. 2012
___________________________
SAO ANH LẠI "TRỐN" , HỠI NHÀ THƠ!
SAO ANH LẠI TRỐN, HỠI NHÀ THƠ!
(Đọc tập thơ TRỐN của Đào Trọng Thử, Nxb Hội Nhà Văn.2011)
Bùi Công Thuấn
Tập thơ đọng lại trong tôi nỗi buồn và nhiều trăn trở. Nỗi buồn thế sự của nhà thơ về thế hệ mình, thời đại mình và về chính mình. Thơ Đào Trọng Thử (ĐTT) là thơ châm biếm – trữ tình, chất trữ tình là chính. Bởi dường như anh nhận ra rằng, sự phê phán châm biếm của anh đã bị thời đại vượt qua, và tiếng thơ của anh như tan vào cõi không. Trữ tình và châm biếm hòa quyện vào nhau, và đó là phẩm chất nghệ thuật riêng của thơ anh.
Đào Trọng Thử quan tâm đến điều gì của thực tại?
Anh châm biếm cái sai, cái nghịch lý, cái bất nhân bất nghĩa, cái trái đạo đức của nhân dân, để khẳng định cái tình cái nghĩa, đặc biệt đối với những người đã chiến đấu và hy sinh. Anh không chịu đựng được những sự việc, những con người, những hoàn cảnh của đời sống kinh tế thị trường trái với lối sống tình nghĩa, nghèo mà thanh cao của thời chiến đấu hy sinh. Trong tập thơ này, trái tim người lính trong anh vẫn dành cho đồng đội. Niềm vui, nỗi đau của anh xuất phát từ sự hy sinh của những người bạn, tương phản với đời sống xã hội thực tại.
Bốn trăm chiến binh dự Mậu Thân đẫm máu
Các anh hy sinh khi tập kích Biên Hòa
Giặc chôn các anh chung nấm mồ to quá
Hài cốt mỗi người không thể nhận ra
Đành chia thôi : Ôi đống xương khô lạnh
Đầu , mình, tay, chân kiếm đủ, chia đều
Chia lần lượt, trời ơi sao vẫn thiếu
Tất cả lặng câm không nghe ai kêu?!
Cha chia cho con nào nhà nào đất
Mafia chia nhau món lợi nhuận kếch xù
Quân tham nhũng chia nhau những đồng tiền bẩn…
(Chia)
Chiến tranh kết thúc lâu rồi
“Nhắn tìm đồng đội” của tôi chưa dừng
Nhắn người :- người dửng dừng dưng
Nhắn đất :-đất lặng không ngừng… chia lô…!
( Nhắn Tìm Đồng Đội)
Đoạn thơ sau đây mang đặc trưng trữ tình - châm biếm của thi pháp ĐTT. Anh châm biếm rất khôn ngoan, mỉa mai rất sâu cay sự giả dối trong cách người ta tổ chức mừng chiến thắng, nhưng không thể bắt bẻ câu chữ của anh được, bởi anh nhìn thấu cái bất nhân bất nghĩa của con người hôm nay với người đã hy sinh, và bởi cái tình của anh với đồng đội sâu nặng quá.
Đồng đội cũ gặp nhau
Xanh xao
Nói cười như mếu
Lang thang lên tàu vào Nam-ra Bắc
Lên tàu ra Bắc xuôi Nam
Tự hào
Đưa tay ngang mũ để chào
Mắt ầng ậc nước
“Nước mắt dành cho ngày gặp mặt”
Nước mắt trong những ngày lận đận
TỔ QUỐC ĐÃ TOÀN THẮNGT!
Chúng mình còn gian lao!
Nếu không có ngày 30 tháng Tư
Ta cũng không vợ, không con, không nhà
Không ruộng,
Ngồi trầm tư trên bàn thờ khói hương đứt quãng
Xương đen nằm ngoài nghĩa trang
Làm ma trẻ ngắm tượng đài sừng sững
TỔ QUỐC GHI CÔNG…
…Mừng Việt Nam ta thắng Mỹ
Nhà nhà cụng ly
Người người cụng ly
Chiến sỹ cụng ly
Quân tham nhũng cụng ly
Cùng nhau giết chó ăn mừng…
Đất nước đang thời mở cửa
Gió bốn phương, tám hướng ùa vào
Mát đấy rồi đau âm ỷ đấy
ĐAU SUỐT ĐẾN ĐỜI CON-ĐỜI CHÁU
CHÚNG MÌNH…!
(Lắng Tiếng Vỗ Tay- Nhân dịp kỳ niệm 35 năm Việt Nam thắng Mỹ- 30.04.2010)
Trái tim anh còn đau nỗi đau của dân tộc trong thời đại nhiễu nhương, thời đại cả dân tộc sợ ngáo ộp (Có Một Con Ngáo Ộp), thời đại oan sai không biết tìm Bao Công ở đâu (Bao Công ), thời đại mà chênh lệch giàu nghèo không sao hiều nổi (Dột), thời đại mà nhân dân xài tiền xu còn bọn nghĩ ra tiền xu lại xài tiền tỷ, chúng ném vào mặt nhân dân những đồng xu đen như ném cho lũ ăn mày (Tiền Xu), thời đại mà người thua kiện luôn là dân đen (Sạch), bởi đó là thời đại người ta đã quên bài hát “ vì nhân dân quên mình “(Bài hát Ấy Quên Rồi)
Tôi lớn lên ngáo ộp có lâu rồi
Nó hiện nguyên hình từ thời cải cách
Trong mỗi mái nhà tranh
Trên mỗi bức tường bức vách…
Làng xóm lặng câm như bãi tha ma…
…Trong tăm tối:
Người với người nhìn nhau ngờ vực
Con cảnh giác cha
Vợ ngờ vực chồng
Cháu đấu tố ông
Con đòi giết bố
Ngáo ộp âm thầm
Rình người khốn khổ
Nỗi kinh hoàng bạc nhược suốt trăm năm…
…Có một con ngáo ộp
Ngự trị trong anh
Ngự trị trong em
Ngự trị trong lòng dân tộc
Khổ đau cho tổ quốc này
Buồn thay!
(Có Một Con Ngáo Ộp)
Bài thơ dùng ngôn ngữ ẩn dụ chỉ những người đương thời với tác giả mới hiểu, hoặc nếu biết lần theo câu thơ Tố Hữu thì có thể nhận ra (1). Những thế hệ hôm nay sẽ chẳng hiểu được ngáo ộp “mình đồng da sắt/ Trăm mắt, trăm tay “ thật sự là gì, và bởi họ không hiểu nên không còn sợ ngáo ộp nữa. Thí dụ, vụ cưỡng chế đất tại Tiên Lãng mà Đoàn Văn Vươn dám chống lại Ngáo Ộp. Rất tiếc tập thơ này in trước sự kiện nấy, nếu không tôi tin Đào Trọng Thử đã có thơ, nhưng mà nhà thơ đã “TRỐN” thực tại hôm nay rồi, bạn đọc sẽ chẳng được đọc những bài thơ không sợ ngáo ộp của Đào Trọng Thử. “Buồn thay!”Ấy là tôi chỉ giả định vậy thôi, nhà thơ hôm nay đã không còn là anh lính chiến năm xưa nữa, mà “ giờ đây thanh thản đợi giờ để bay”(Lên Lão)
Và đây là nỗi đau đã bật thành tiếng cười bất lực, bởi thời đại hôm nay đã đánh mất lý tưởng:
Thời anh là lính chiến
Đêm ngày “Hành quân xa”
“Bác vẫn cùng chúng cháu”
Ngày nào anh cũng ca
“Vì nhân dân phục vụ”
“Vì nhân dân hy sinh”
Vì nhân dân quên mình”
Cà toàn quân cùng hát
Đất nước giờ đổi khác
Thêm nhiều bài hát hay
“Vì nhân dân “ quên khuấy
Cúi đầu chào- bó tay…!
(Bài hát Ấy Quên Rồi)
Đào Trọng Thử trốn đi đâu?
Đào Trọng Thử lấy tên tập thơ là “TRỐN”, bạn đọc sẽ tự hỏi tại sao nhà thơ lại trốn, trốn đi đâu, thái độ của anh là thế nào trong cuộc chạy trốn?
Vào rừng để nhớ chiến tranh
Một thời khốc liệt toàn anh lính quèn
Phố phường sống gấp không quen
Quên nhanh thớ lợ, nghèo hèn nhớ lâu
Rừng ơi đồng chí ở đâu?
Cây rưng rưng lặng. Ve sầu điên điên…!
Vào rừng ngỡ gặp bạn hiền
Bạn hiền nhiều đứa xuôi miền hư vô
Vào rừng chạy trốn hoan hô
Hoan hô xô lệch cơ đồ nước Nam
Trốn phố phường cái túi tham
Cùng rừng ta tiếp tục làm con dân..!
(Trốn)
Như vậy là đã rõ. Anh trốn cuộc sống gấp ở phố phường, trốn sự giả dối, trốn sự gian tham. Anh lên rừng sống với đồng đội lính quèn chân thật, sống với những đồng chí, những người đã xuôi miền hư vô. Thực ra đó chỉ là cách nói ẩn dụ. Nhà thơ không thích hợp với đời sống kinh tế thị trường, bởi vì người “Làm kinh tế có trăm phương ngàn kế”(Âm Thịnh), lũ người sống xung quanh chẳng khác gì lũ đười ươi, thực ra đười ươi khác người bởi chúng không ngậm tăm như người (Ngậm Tăm). Anh không sống được với bọn quan tham kiếm tiền như làm xiếc (Xiếc), trong khi người nghèo hiền lành chân thật như Thạch Sanh vẫn bị lừa (Thạch Sanh). Dẫu vậy, anh không dấu được những cơn giận điên người trước thủ đoạn và tội ác mà tập đoàn Vê-Đan gây ra cho quê hương Đồng Nai (Bột Đắng)
Ai trực tiếp giết sông
Là gián tiếp giết người
Sông chết bây giờ
Người sẽ chết mai kia !
Lửa đã cháy! Chuột đã lòi mặt chuột
Tập đoàn Vê-Đan ăn năn hối cải
Đã muộn rồi !
Bột ngọt các ngươi trở nên đắng chat
TẬP ĐOÀN VÊ-ĐAN LÀ TẬP ĐOÀN TỒI”
Câu thơ ngắn lại với giọng quyết liệt, câu thơ bùng lên như lửa cháy. Những tưởng lửa căm giận, lửa của lòng yêu nước thương dân sẽ thiêu sạch bọn chuột Vê-Đan. Vậy mà anh chỉ kết luận bằng một câu chẳng có một tí trọng lượng nào. Câu thơ đa số là tiếng bằng, nhạc điệu buồn, chậm lại và buông xuôi như người lính gục xuống. “TẬP ĐOÀN VÊ-ĐAN LÀ TẬP ĐOÀN TỒI”
. Phải chăng bút lực của anh đã sức cùng lực kiệt? hay kẻ thù quá lớn đến nỗi, dù súng đạn anh có thừa, anh cũng chẳm làm nên trò trống gì? Thơ anh chỉ còn là những lời hô hào suông, không lay động được những tâm hồn đồng điệu khác, không gợi được cái hào khí hùng ca của thơ ca thuở trước! Hay tại đề tại anh chọn báo chí đã khai thác cạn kiệt, mà tài thơ của anh không thể gây sóng? tất nhiên chẳng ai đòi nhà thơ phải xông lên chiến đấu như người lính năm xưa, nhưng ít ra tư tưởng, tình cảm và ngọn lửa yêu nước trong lòng anh phải rực sáng, trong thời đại mà anh bảo là “Chặng đường phía trước còn tăm tối/ Đời còn lâu nữa mới bình minh “(Tự)
Hồn thơ ĐTT chỉ thực sự bình yên khi trở về với đồng quê xanh mát tình người
Phở bò, lẩu Thái cho qua
Mẹ ghiền bánh đúc – thứ quà nhà quê
Bánh đúc bát, bánh đúc sề
Lạc rang ít hạt bùi tê tái…bùi…
Mẹ ăn bánh : Con bùi ngùi
Bao bà Mẹ - Giống mẹ tôi hở giời?!
Nồng nàn tấm bánh đúc vôi
Quốc hồn dân Việt dâng đời thảo thơm…!
(Ca bánh Đúc- Kính tặng các bà mẹ Việt Nam)
Cha tích cực trồng cau
Để kiếm mo làm quạt
Trời dộp phồng khô khát
Thương mẹ già mỏi tay …!
(Mo Cau)
…Ước gì trở lại ngày xưa
Đời yên tình thắm trâu đùa cùng ta
Cỏ non xanh lại đồng nhà
Trâu xơi thỏa chí, khỏi qua đồng người”
(Trâu Về)
Ở những bài thơ trên (Ca Bánh Đúc, Sen, Hoa Lau, Rau tàu bay, Lá Trung Quân,Thày Ơi, Nước Mắt Chảy Xuôi, Mo Cau, Trâu Về..), thơ ĐTT hiền lành hơn, chất trữ tình đậm đặc hơn. Hồn thơ sâu nặng nghĩa tình. Tính châm biếm chỉ còn là nỗi xót xa rất nhẹ nhàng. Nói điều này để thấy những bài thơ châm biếm của anh xuất phát từ những nỗi bức xúc thế sự không dằn lòng được, còn căn cốt hồn thơ anh là tiếng nói trữ tình.
Thở phào : Thoát khỏi hương dương
Chuyển sang hưởng thọ : đọan trường còn xa…?!
Bao nhiêu lần suýt làm ma
Rồi con, rồi cháu đầy nhà như ai
Ngẫm mình có tí tẹo tài
Hành nghề chữ nghĩa với vài tập thơ
Xuống ruộng chán, lại lên bờ
Giờ đây thanh thản đợi giờ để “bay”
Của riêng “còn một chút này”
Ai khen : Cảm tạ- ai rầy : Cám ơn…!
(Lên lão-2009)
Nằm trong dòng thơ trữ tình của ĐTT là những bài anh viết cho các công ty (Tình Trong Ly Cà Phê, Những tiếng Đập Sữa, Gửi Người Mặc Áo Nàng Bân, Những Cái Râu Mực). Những bài này chất trữ tình lấn át hẳn chất quảng cáo, khiến cho người đọc chợt ngỡ ngàng về tài thơ của anh. Bởi khi viết thơ châm, người thơ chú trọng đến đối tượng châm biếm và các kỹ thuật viết thơ châm, khiến cho chất nghệ thuật của ngôn ngữ văn chương bị giảm đi (thí dụ các bài : Không Đề, Gặp Lại Cây Sung, Bình Quân, Mèo, Đầy Tớ Còn Đang Họp…)
Thơ châm của Đào Trọng Thử có gì đặc sắc?
Nghệ thuật châm biếm trào phúng của ĐTT là nghệ thuật của thơ trào phúng truyền thống. Anh hay dùng thủ pháp tương phản để bật ra cái mâu thuẫn gây cười, tiếng cười đánh thẳng vào kẻ xấu, cái xấu. Anh cũng có những bài sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để khái quát về một vấn đề (Mối, Gặp Lại Cây Sung, Không Đề, Rác, Thạch Sùng, Xuân Tóc Đỏ, Thạch Sanh, Lý Thông, Chí Phèo, Thi hào Nguyễn Du, Có Một Con Ngáo Ộp) Lập trường của anh là lập trường nhân dân, chính nghĩa của anh là chính nghĩa dân tộc, tình cảm yêu thương chiến đấu của anh là tình cảm thiên về đạo lý của nhân dân. Trong thơ anh, rất hiếm khi gặp được Cái Tôi
Tiền Xu
Kẻ nghĩ ra tiền xu
Lại đang xài tiền tỷ
Hắn ung dung
Búng
Những
Đồng
Xu
Han gỉ
Lăn
Lăn
Lăn
Về phía lũ ăn mày
Bài Cấp Độ được viết như một tiểu phẩm hài.
Đỉnh tầng năm khách sạn 5 sao
Nhìn xuống cánh đồng ven đô
Cán bộ tỉnh trầm trồ :
- Ôi! Lúa mùa chin vàng mơ, đẹp quá!
Cán bộ huyện tán dương hể hả
- Một cánh đồng màu mỡ
Dân trồng toàn lúa nếp
Hứa hẹn vụ mùa bội thu
Cán bộ xã gãi đầu, gãi tai :
- Hổng dám đâu, đất quy hoạch sân gôn
Nông dân đã nhận tiền rồi
Màu vàng cỏ tranh thôi
Kính thưa các sếp…!
Nhưng tuyệt kỹ châm biếm của ĐTT phải kể đến bài Lắng Tiếng Vỗ Tay, Bài Học Vỗ Tay, Thưởng. Anh nói rất thật, nhưng lại là châm biếm, và châm biếm sâu cay. Cái đau không phải là ở đối tượng bị châm biếm mà lại nỗi đau không kìm nén được trong lòng anh. Anh phê phán thói giả hình, thói vong ân bội nghĩa của cuộc đời và xót xa cho những người đã chiến đấu và hy sinh. Anh chỉ ra trong cái ồn ào, xô bồ, phô trương hình thức, đâu là bản chất của sự giả dối vong ân. Nội dung trở nên trào phúng khi ngôn ngữ của anh đang bình thường bỗng chuyển sang cường điệu hoặc tương phản
…Ba mươi lăm năm ăn mừng toàn thắng
Người sống ngồi cùng người chết
Cùng lắng nghe biển người
Vỗ tay rào rào hoan hỷ
Bắt tay đồng chí- đồng bào
Tiếng vỗ tay đều đặn, tự hào
Tiếng vỗ tay vang vang như biển động sóng trào
Tiếng vỗ tay như sấm rền tít tận trời cao…
Mừng Việt Nam ta thắng Mỹ
Nhà nhà cụng ly
Người người cụng ly
Chiến sỹ cụng ly
Quân tham nhũng cụng ly
Cùng nhau giết chó ăn mừng
Tự hào ngày 30 tháng Tư góp mặt chúng mình
Tự hào có chúng mình mới có ngày 30 tháng Tư
Đồng đội của tôi ơi hãy im lặng lắng nghe cả nước vỗ tay
Vỗ đến tấy đỏ cả hai bàn tay vẫn còn mãi vỗ…
(Lắng Tiếng Vỗ Tay)
12 câu thơ đầu mang ý nghĩa bình thường, vì vui nên có hơi lãng mạn một chút, nhưng khi bật ra câu 13 “Quân tham nhũng cụng ly” và câu 18:” Vỗ đến tấy đỏ cả hai bàn tay vẫn còn mãi vỗ…” thì toàn bộ nội dung trước đó trở nên trào phúng, châm biếm. Bởi tất cả những gì đang diễn ra, niềm vui, niềm tự hào, tình đồng chí đồng bào, ý nghĩa sự thắng lợi, ý nghĩa của lòng tri ân chỉ là giả dối, là hình thức, là ngụy trang. Làm gì có chuyện cả nước vỗ tay đều đặn? làm gì có cảnh Nhà nhà cụng ly/ Người người cụng ly/ Chiến sỹ cụng ly/ Quân tham nhũng cụng ly/ Cùng nhau giết chó ăn mừng. Làm gì có cảnh cả nước vỗ tay/Vỗ đến tấy đỏ cả hai bàn tay vẫn còn mãi vỗ. Chính sự cường điệu, sự diễu nhại (2) này tạo ra ý nghĩa châm biếm, làm đảo ngược ý nghĩa nội dung tưởng như thật được ĐTT miêu tả. Trong đoạn thơ trên cũng cần thấy tài năng dựng cảnh, tài năng ,”chộp” những hình ảnh sắc nét, bất chợt, tài năng đặt bên nhau những cái tương phản để tạo ra một không gian nghệ thuật vừa cụ thể, vừa có sức khái quát, vừa rất thật, nhưng vừa là sự lật nhào tất cả làm lộ ra những gì là giả dối, sự giả dối lớn lao, sờ sờ ra đó trong thời đại hôm nay (cả nước-vẫn còn mãi). Cái đau là ở những người như “chúng mình”. Tự hào có chúng mình mới có ngày 30 tháng Tư/ Đồng đội của tôi ơi hãy im lặng lắng nghe cả nước vỗ tay.
Có thể bạn đọc sẽ không đồng tình với ĐTT về cách nhìn và cách phản ánh, phân tích hơi quá đáng của anh về hiện thực. Cả tập thơ chỉ phản ánh hiện thưc đau lòng của số phận nhân dân, của người lính sau chiến tranh, hiện thực giả dối, hiện thực bất công của thời kinh tế thị trường, anh ước mơ trở về “ngày xưa”, thời chiến tranh, tuy gian khổ nhưng nghĩa tình chân thực, đằm thắm. Tuy không nói thẳng ra, nhưng anh đòi hỏi phải có một xã hội công bằng, “Cơm no, áo ấm nhà nhà”, đòi hỏi những người đã chiến đấu hy sinh phải được bù đắp xứng đáng. Anh ca ngợi cuộc sống thanh bần. Cái nhìn của anh bi quan trước hiện thực, có đôi khi anh thỏa hiệp với hiện thực (Mừng Thọ Bác Bùi Tứ Hải, Thiên Đường,…).
Thực ra chiến tranh đã qua lâu rồi (37 năm), chẳng còn ai mong trở về cái thời đau thương ấy nữa. Bây giờ là thời khép lại quá khứ hướng đến tương lai, thời của “nước giàu, dân mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”sẽ chẳng ai ngồi ôm đống xương người chết mà khóc (dù công việc đền ơn đáp nghĩa, tìm hài cốt liệt sĩ vẫn đang tiến hành), chẳng còn ai thích ăn rau tàu bay, dùng quạt mo cau nữa (Rau Tàu Bay, Mo Cau). ĐTT cố níu kéo cái thời quá vãng ấy, liệu anh có đủ sức không?
Cũng cần thấy điều này về mặt nghệ thuật, ĐTT có những phát hiện rất tinh tế, rất thơ cũng rất tư tưởng ở những sự vật sự việc của đời thường, qua đó anh đặt vấn đề làm “nhức đầu” người đọc (Hoa Lau, Rau Tàu Bay, Âm Thịnh, Tiền Xu, Mối, Nhắn Tìm Đồng Đội, Cấp Độ). Đọc những bài thơ này, người đọc vừa thấm thía, vừa thú vị. Thấm thía ở vấn đề anh đặt ra, thú vị ở nghệ thuật thể hiện. Xin đọc Tiền Xu và Cấp Độ là hai bài tiêu biểu. Tuy vậy không phải bài nào anh cũng thành công. Bình Quân và Ngậm Tăm là hai bài rất ít sáng tạo nghệ thuật. Bài Ngậm Tăm (07.2010) của ĐTT chắc chắn là sự diễn đạt lại dưới dạng thơ ý tưởng chủ đề của truyện ngắn Thói Ngậm Tăm (12.2007) của Khôi Vũ. Còn Bình Quân là câu chuyện giả định được kể nhiều trong dân gian để mỉa mai cách tính GDP theo bình quân đầu người. ĐTT chỉ ghi lại câu chuyện mà không có sáng tạo gì mới hơn. Bài Mèo thực sự chưa đem đến cho người đọc cảm xúc thẩm mỹ cần thiết để cảm nhận đó là một bài thơ, ngoài sự chia sẻ một nhận định bi quan của tác giả “Người đời ai chẳng một lần/ Mèo…!”
Có một con gà luộc
Bình quân cho hai người
Kẻ giầu thản nhiên chén
Người nghèo nhăn răng cười…
(Bình Quân)
Nếu Đào Trọng thử phát huy được mặt mạnh của mình cả trong thơ trữ tình và thơ châm biếm, anh sẽ có nhiều thành công hơn, bởi anh có được cái nền tình nghĩa sâu nặng với nhân dân, sử dụng được kỹ thuật thể hiện của nhân dân, và anh hòa mình vào trong nhân dân để cảm nhận, lên tiếng về những vấn đề của đời sống đương đại, mà tầm nhìn của anh vừa có chiều lịch sử, vừa có chiều hiện đại (Có Một Con Ngáo Ộp- Bột Đắng; Sen-Cấp Độ…). Trong tập thơ TRỐN anh không có bài thơ cách tân theo khuynh hướng của thơ Việt đương đại, tuy vậy tập thơ định hình được khuôn mặt thơ Đào Trọng Thử với hai nét sắc xảo là trữ tình và châm biếm. Đào Trọng Thử vẫn trung thành với con đường đi riêng trong cá tính sáng tạo, và ít nhiều anh đã có được thành công.
Dù sao ý niệm “trốn” trong thơ ĐTT cũng gợi ra thái độ an bần lạc đạo của nhà Nho xưa, tuy ĐTT chưa bao giờ là nhà Nho, mà tính cách của anh là tính cách con nhà lính.
Cháu nội cháu ngoại đầy nhà
Gặp nhau thì vẫn cứ là mày tao
Ngỡ như vừa mới hôm nào
Tha La, Vườn Mít, đội tao đội mày
Trộm rau bắt gặp thì “vay”
Mổ thương binh giỏi, đứ tay la làng
Lính quèn rất khoái xài sangh
Đèn Nghéo, đài Nhật nghênh ngang rừng già…
Chiến trường ôn lại mắt cay
Rưng rưng nhớ bạn bấy chầy “tiêu dên”
Miền Đông ác liệt nỡ quên?
Mất toi tuổi trẻ bắt đền ai đây?!
Ăn mừng cuối tháng Tư này
Sang năm gặp lại chúng mày Hăm ba…
(Ngẫu hứng K23)
_____________________________________
(1) Bài : Ba Mươi Năm Đời Ta Có Đảng-Tố Hữu:
Ðảng ta đó, trăm tay nghìn mắt
Ðảng ta đây, xương sắt da đồng.
(2) ĐTT diễu nhại bài thơ chúc Tết năm 1949 của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Kháng chiến lại thêm một năm mới,
Thi đua ái quốc thêm tiến tới.
Động viên lực lượng và tinh thần.
Kháng chiến càng thêm mau thắng lợi.
Người người thi đua
Ngành ngành thi đua
Ngày ngày thi đua
Ta nhất định thắng
Địch nhất định thua.
(Đọc tập thơ TRỐN của Đào Trọng Thử, Nxb Hội Nhà Văn.2011)
Bùi Công Thuấn
Tập thơ đọng lại trong tôi nỗi buồn và nhiều trăn trở. Nỗi buồn thế sự của nhà thơ về thế hệ mình, thời đại mình và về chính mình. Thơ Đào Trọng Thử (ĐTT) là thơ châm biếm – trữ tình, chất trữ tình là chính. Bởi dường như anh nhận ra rằng, sự phê phán châm biếm của anh đã bị thời đại vượt qua, và tiếng thơ của anh như tan vào cõi không. Trữ tình và châm biếm hòa quyện vào nhau, và đó là phẩm chất nghệ thuật riêng của thơ anh.
Đào Trọng Thử quan tâm đến điều gì của thực tại?
Anh châm biếm cái sai, cái nghịch lý, cái bất nhân bất nghĩa, cái trái đạo đức của nhân dân, để khẳng định cái tình cái nghĩa, đặc biệt đối với những người đã chiến đấu và hy sinh. Anh không chịu đựng được những sự việc, những con người, những hoàn cảnh của đời sống kinh tế thị trường trái với lối sống tình nghĩa, nghèo mà thanh cao của thời chiến đấu hy sinh. Trong tập thơ này, trái tim người lính trong anh vẫn dành cho đồng đội. Niềm vui, nỗi đau của anh xuất phát từ sự hy sinh của những người bạn, tương phản với đời sống xã hội thực tại.
Bốn trăm chiến binh dự Mậu Thân đẫm máu
Các anh hy sinh khi tập kích Biên Hòa
Giặc chôn các anh chung nấm mồ to quá
Hài cốt mỗi người không thể nhận ra
Đành chia thôi : Ôi đống xương khô lạnh
Đầu , mình, tay, chân kiếm đủ, chia đều
Chia lần lượt, trời ơi sao vẫn thiếu
Tất cả lặng câm không nghe ai kêu?!
Cha chia cho con nào nhà nào đất
Mafia chia nhau món lợi nhuận kếch xù
Quân tham nhũng chia nhau những đồng tiền bẩn…
(Chia)
Chiến tranh kết thúc lâu rồi
“Nhắn tìm đồng đội” của tôi chưa dừng
Nhắn người :- người dửng dừng dưng
Nhắn đất :-đất lặng không ngừng… chia lô…!
( Nhắn Tìm Đồng Đội)
Đoạn thơ sau đây mang đặc trưng trữ tình - châm biếm của thi pháp ĐTT. Anh châm biếm rất khôn ngoan, mỉa mai rất sâu cay sự giả dối trong cách người ta tổ chức mừng chiến thắng, nhưng không thể bắt bẻ câu chữ của anh được, bởi anh nhìn thấu cái bất nhân bất nghĩa của con người hôm nay với người đã hy sinh, và bởi cái tình của anh với đồng đội sâu nặng quá.
Đồng đội cũ gặp nhau
Xanh xao
Nói cười như mếu
Lang thang lên tàu vào Nam-ra Bắc
Lên tàu ra Bắc xuôi Nam
Tự hào
Đưa tay ngang mũ để chào
Mắt ầng ậc nước
“Nước mắt dành cho ngày gặp mặt”
Nước mắt trong những ngày lận đận
TỔ QUỐC ĐÃ TOÀN THẮNGT!
Chúng mình còn gian lao!
Nếu không có ngày 30 tháng Tư
Ta cũng không vợ, không con, không nhà
Không ruộng,
Ngồi trầm tư trên bàn thờ khói hương đứt quãng
Xương đen nằm ngoài nghĩa trang
Làm ma trẻ ngắm tượng đài sừng sững
TỔ QUỐC GHI CÔNG…
…Mừng Việt Nam ta thắng Mỹ
Nhà nhà cụng ly
Người người cụng ly
Chiến sỹ cụng ly
Quân tham nhũng cụng ly
Cùng nhau giết chó ăn mừng…
Đất nước đang thời mở cửa
Gió bốn phương, tám hướng ùa vào
Mát đấy rồi đau âm ỷ đấy
ĐAU SUỐT ĐẾN ĐỜI CON-ĐỜI CHÁU
CHÚNG MÌNH…!
(Lắng Tiếng Vỗ Tay- Nhân dịp kỳ niệm 35 năm Việt Nam thắng Mỹ- 30.04.2010)
Trái tim anh còn đau nỗi đau của dân tộc trong thời đại nhiễu nhương, thời đại cả dân tộc sợ ngáo ộp (Có Một Con Ngáo Ộp), thời đại oan sai không biết tìm Bao Công ở đâu (Bao Công ), thời đại mà chênh lệch giàu nghèo không sao hiều nổi (Dột), thời đại mà nhân dân xài tiền xu còn bọn nghĩ ra tiền xu lại xài tiền tỷ, chúng ném vào mặt nhân dân những đồng xu đen như ném cho lũ ăn mày (Tiền Xu), thời đại mà người thua kiện luôn là dân đen (Sạch), bởi đó là thời đại người ta đã quên bài hát “ vì nhân dân quên mình “(Bài hát Ấy Quên Rồi)
Tôi lớn lên ngáo ộp có lâu rồi
Nó hiện nguyên hình từ thời cải cách
Trong mỗi mái nhà tranh
Trên mỗi bức tường bức vách…
Làng xóm lặng câm như bãi tha ma…
…Trong tăm tối:
Người với người nhìn nhau ngờ vực
Con cảnh giác cha
Vợ ngờ vực chồng
Cháu đấu tố ông
Con đòi giết bố
Ngáo ộp âm thầm
Rình người khốn khổ
Nỗi kinh hoàng bạc nhược suốt trăm năm…
…Có một con ngáo ộp
Ngự trị trong anh
Ngự trị trong em
Ngự trị trong lòng dân tộc
Khổ đau cho tổ quốc này
Buồn thay!
(Có Một Con Ngáo Ộp)
Bài thơ dùng ngôn ngữ ẩn dụ chỉ những người đương thời với tác giả mới hiểu, hoặc nếu biết lần theo câu thơ Tố Hữu thì có thể nhận ra (1). Những thế hệ hôm nay sẽ chẳng hiểu được ngáo ộp “mình đồng da sắt/ Trăm mắt, trăm tay “ thật sự là gì, và bởi họ không hiểu nên không còn sợ ngáo ộp nữa. Thí dụ, vụ cưỡng chế đất tại Tiên Lãng mà Đoàn Văn Vươn dám chống lại Ngáo Ộp. Rất tiếc tập thơ này in trước sự kiện nấy, nếu không tôi tin Đào Trọng Thử đã có thơ, nhưng mà nhà thơ đã “TRỐN” thực tại hôm nay rồi, bạn đọc sẽ chẳng được đọc những bài thơ không sợ ngáo ộp của Đào Trọng Thử. “Buồn thay!”Ấy là tôi chỉ giả định vậy thôi, nhà thơ hôm nay đã không còn là anh lính chiến năm xưa nữa, mà “ giờ đây thanh thản đợi giờ để bay”(Lên Lão)
Và đây là nỗi đau đã bật thành tiếng cười bất lực, bởi thời đại hôm nay đã đánh mất lý tưởng:
Thời anh là lính chiến
Đêm ngày “Hành quân xa”
“Bác vẫn cùng chúng cháu”
Ngày nào anh cũng ca
“Vì nhân dân phục vụ”
“Vì nhân dân hy sinh”
Vì nhân dân quên mình”
Cà toàn quân cùng hát
Đất nước giờ đổi khác
Thêm nhiều bài hát hay
“Vì nhân dân “ quên khuấy
Cúi đầu chào- bó tay…!
(Bài hát Ấy Quên Rồi)
Đào Trọng Thử trốn đi đâu?
Đào Trọng Thử lấy tên tập thơ là “TRỐN”, bạn đọc sẽ tự hỏi tại sao nhà thơ lại trốn, trốn đi đâu, thái độ của anh là thế nào trong cuộc chạy trốn?
Vào rừng để nhớ chiến tranh
Một thời khốc liệt toàn anh lính quèn
Phố phường sống gấp không quen
Quên nhanh thớ lợ, nghèo hèn nhớ lâu
Rừng ơi đồng chí ở đâu?
Cây rưng rưng lặng. Ve sầu điên điên…!
Vào rừng ngỡ gặp bạn hiền
Bạn hiền nhiều đứa xuôi miền hư vô
Vào rừng chạy trốn hoan hô
Hoan hô xô lệch cơ đồ nước Nam
Trốn phố phường cái túi tham
Cùng rừng ta tiếp tục làm con dân..!
(Trốn)
Như vậy là đã rõ. Anh trốn cuộc sống gấp ở phố phường, trốn sự giả dối, trốn sự gian tham. Anh lên rừng sống với đồng đội lính quèn chân thật, sống với những đồng chí, những người đã xuôi miền hư vô. Thực ra đó chỉ là cách nói ẩn dụ. Nhà thơ không thích hợp với đời sống kinh tế thị trường, bởi vì người “Làm kinh tế có trăm phương ngàn kế”(Âm Thịnh), lũ người sống xung quanh chẳng khác gì lũ đười ươi, thực ra đười ươi khác người bởi chúng không ngậm tăm như người (Ngậm Tăm). Anh không sống được với bọn quan tham kiếm tiền như làm xiếc (Xiếc), trong khi người nghèo hiền lành chân thật như Thạch Sanh vẫn bị lừa (Thạch Sanh). Dẫu vậy, anh không dấu được những cơn giận điên người trước thủ đoạn và tội ác mà tập đoàn Vê-Đan gây ra cho quê hương Đồng Nai (Bột Đắng)
Ai trực tiếp giết sông
Là gián tiếp giết người
Sông chết bây giờ
Người sẽ chết mai kia !
Lửa đã cháy! Chuột đã lòi mặt chuột
Tập đoàn Vê-Đan ăn năn hối cải
Đã muộn rồi !
Bột ngọt các ngươi trở nên đắng chat
TẬP ĐOÀN VÊ-ĐAN LÀ TẬP ĐOÀN TỒI”
Câu thơ ngắn lại với giọng quyết liệt, câu thơ bùng lên như lửa cháy. Những tưởng lửa căm giận, lửa của lòng yêu nước thương dân sẽ thiêu sạch bọn chuột Vê-Đan. Vậy mà anh chỉ kết luận bằng một câu chẳng có một tí trọng lượng nào. Câu thơ đa số là tiếng bằng, nhạc điệu buồn, chậm lại và buông xuôi như người lính gục xuống. “TẬP ĐOÀN VÊ-ĐAN LÀ TẬP ĐOÀN TỒI”
. Phải chăng bút lực của anh đã sức cùng lực kiệt? hay kẻ thù quá lớn đến nỗi, dù súng đạn anh có thừa, anh cũng chẳm làm nên trò trống gì? Thơ anh chỉ còn là những lời hô hào suông, không lay động được những tâm hồn đồng điệu khác, không gợi được cái hào khí hùng ca của thơ ca thuở trước! Hay tại đề tại anh chọn báo chí đã khai thác cạn kiệt, mà tài thơ của anh không thể gây sóng? tất nhiên chẳng ai đòi nhà thơ phải xông lên chiến đấu như người lính năm xưa, nhưng ít ra tư tưởng, tình cảm và ngọn lửa yêu nước trong lòng anh phải rực sáng, trong thời đại mà anh bảo là “Chặng đường phía trước còn tăm tối/ Đời còn lâu nữa mới bình minh “(Tự)
Hồn thơ ĐTT chỉ thực sự bình yên khi trở về với đồng quê xanh mát tình người
Phở bò, lẩu Thái cho qua
Mẹ ghiền bánh đúc – thứ quà nhà quê
Bánh đúc bát, bánh đúc sề
Lạc rang ít hạt bùi tê tái…bùi…
Mẹ ăn bánh : Con bùi ngùi
Bao bà Mẹ - Giống mẹ tôi hở giời?!
Nồng nàn tấm bánh đúc vôi
Quốc hồn dân Việt dâng đời thảo thơm…!
(Ca bánh Đúc- Kính tặng các bà mẹ Việt Nam)
Cha tích cực trồng cau
Để kiếm mo làm quạt
Trời dộp phồng khô khát
Thương mẹ già mỏi tay …!
(Mo Cau)
…Ước gì trở lại ngày xưa
Đời yên tình thắm trâu đùa cùng ta
Cỏ non xanh lại đồng nhà
Trâu xơi thỏa chí, khỏi qua đồng người”
(Trâu Về)
Ở những bài thơ trên (Ca Bánh Đúc, Sen, Hoa Lau, Rau tàu bay, Lá Trung Quân,Thày Ơi, Nước Mắt Chảy Xuôi, Mo Cau, Trâu Về..), thơ ĐTT hiền lành hơn, chất trữ tình đậm đặc hơn. Hồn thơ sâu nặng nghĩa tình. Tính châm biếm chỉ còn là nỗi xót xa rất nhẹ nhàng. Nói điều này để thấy những bài thơ châm biếm của anh xuất phát từ những nỗi bức xúc thế sự không dằn lòng được, còn căn cốt hồn thơ anh là tiếng nói trữ tình.
Thở phào : Thoát khỏi hương dương
Chuyển sang hưởng thọ : đọan trường còn xa…?!
Bao nhiêu lần suýt làm ma
Rồi con, rồi cháu đầy nhà như ai
Ngẫm mình có tí tẹo tài
Hành nghề chữ nghĩa với vài tập thơ
Xuống ruộng chán, lại lên bờ
Giờ đây thanh thản đợi giờ để “bay”
Của riêng “còn một chút này”
Ai khen : Cảm tạ- ai rầy : Cám ơn…!
(Lên lão-2009)
Nằm trong dòng thơ trữ tình của ĐTT là những bài anh viết cho các công ty (Tình Trong Ly Cà Phê, Những tiếng Đập Sữa, Gửi Người Mặc Áo Nàng Bân, Những Cái Râu Mực). Những bài này chất trữ tình lấn át hẳn chất quảng cáo, khiến cho người đọc chợt ngỡ ngàng về tài thơ của anh. Bởi khi viết thơ châm, người thơ chú trọng đến đối tượng châm biếm và các kỹ thuật viết thơ châm, khiến cho chất nghệ thuật của ngôn ngữ văn chương bị giảm đi (thí dụ các bài : Không Đề, Gặp Lại Cây Sung, Bình Quân, Mèo, Đầy Tớ Còn Đang Họp…)
Thơ châm của Đào Trọng Thử có gì đặc sắc?
Nghệ thuật châm biếm trào phúng của ĐTT là nghệ thuật của thơ trào phúng truyền thống. Anh hay dùng thủ pháp tương phản để bật ra cái mâu thuẫn gây cười, tiếng cười đánh thẳng vào kẻ xấu, cái xấu. Anh cũng có những bài sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để khái quát về một vấn đề (Mối, Gặp Lại Cây Sung, Không Đề, Rác, Thạch Sùng, Xuân Tóc Đỏ, Thạch Sanh, Lý Thông, Chí Phèo, Thi hào Nguyễn Du, Có Một Con Ngáo Ộp) Lập trường của anh là lập trường nhân dân, chính nghĩa của anh là chính nghĩa dân tộc, tình cảm yêu thương chiến đấu của anh là tình cảm thiên về đạo lý của nhân dân. Trong thơ anh, rất hiếm khi gặp được Cái Tôi
Tiền Xu
Kẻ nghĩ ra tiền xu
Lại đang xài tiền tỷ
Hắn ung dung
Búng
Những
Đồng
Xu
Han gỉ
Lăn
Lăn
Lăn
Về phía lũ ăn mày
Bài Cấp Độ được viết như một tiểu phẩm hài.
Đỉnh tầng năm khách sạn 5 sao
Nhìn xuống cánh đồng ven đô
Cán bộ tỉnh trầm trồ :
- Ôi! Lúa mùa chin vàng mơ, đẹp quá!
Cán bộ huyện tán dương hể hả
- Một cánh đồng màu mỡ
Dân trồng toàn lúa nếp
Hứa hẹn vụ mùa bội thu
Cán bộ xã gãi đầu, gãi tai :
- Hổng dám đâu, đất quy hoạch sân gôn
Nông dân đã nhận tiền rồi
Màu vàng cỏ tranh thôi
Kính thưa các sếp…!
Nhưng tuyệt kỹ châm biếm của ĐTT phải kể đến bài Lắng Tiếng Vỗ Tay, Bài Học Vỗ Tay, Thưởng. Anh nói rất thật, nhưng lại là châm biếm, và châm biếm sâu cay. Cái đau không phải là ở đối tượng bị châm biếm mà lại nỗi đau không kìm nén được trong lòng anh. Anh phê phán thói giả hình, thói vong ân bội nghĩa của cuộc đời và xót xa cho những người đã chiến đấu và hy sinh. Anh chỉ ra trong cái ồn ào, xô bồ, phô trương hình thức, đâu là bản chất của sự giả dối vong ân. Nội dung trở nên trào phúng khi ngôn ngữ của anh đang bình thường bỗng chuyển sang cường điệu hoặc tương phản
…Ba mươi lăm năm ăn mừng toàn thắng
Người sống ngồi cùng người chết
Cùng lắng nghe biển người
Vỗ tay rào rào hoan hỷ
Bắt tay đồng chí- đồng bào
Tiếng vỗ tay đều đặn, tự hào
Tiếng vỗ tay vang vang như biển động sóng trào
Tiếng vỗ tay như sấm rền tít tận trời cao…
Mừng Việt Nam ta thắng Mỹ
Nhà nhà cụng ly
Người người cụng ly
Chiến sỹ cụng ly
Quân tham nhũng cụng ly
Cùng nhau giết chó ăn mừng
Tự hào ngày 30 tháng Tư góp mặt chúng mình
Tự hào có chúng mình mới có ngày 30 tháng Tư
Đồng đội của tôi ơi hãy im lặng lắng nghe cả nước vỗ tay
Vỗ đến tấy đỏ cả hai bàn tay vẫn còn mãi vỗ…
(Lắng Tiếng Vỗ Tay)
12 câu thơ đầu mang ý nghĩa bình thường, vì vui nên có hơi lãng mạn một chút, nhưng khi bật ra câu 13 “Quân tham nhũng cụng ly” và câu 18:” Vỗ đến tấy đỏ cả hai bàn tay vẫn còn mãi vỗ…” thì toàn bộ nội dung trước đó trở nên trào phúng, châm biếm. Bởi tất cả những gì đang diễn ra, niềm vui, niềm tự hào, tình đồng chí đồng bào, ý nghĩa sự thắng lợi, ý nghĩa của lòng tri ân chỉ là giả dối, là hình thức, là ngụy trang. Làm gì có chuyện cả nước vỗ tay đều đặn? làm gì có cảnh Nhà nhà cụng ly/ Người người cụng ly/ Chiến sỹ cụng ly/ Quân tham nhũng cụng ly/ Cùng nhau giết chó ăn mừng. Làm gì có cảnh cả nước vỗ tay/Vỗ đến tấy đỏ cả hai bàn tay vẫn còn mãi vỗ. Chính sự cường điệu, sự diễu nhại (2) này tạo ra ý nghĩa châm biếm, làm đảo ngược ý nghĩa nội dung tưởng như thật được ĐTT miêu tả. Trong đoạn thơ trên cũng cần thấy tài năng dựng cảnh, tài năng ,”chộp” những hình ảnh sắc nét, bất chợt, tài năng đặt bên nhau những cái tương phản để tạo ra một không gian nghệ thuật vừa cụ thể, vừa có sức khái quát, vừa rất thật, nhưng vừa là sự lật nhào tất cả làm lộ ra những gì là giả dối, sự giả dối lớn lao, sờ sờ ra đó trong thời đại hôm nay (cả nước-vẫn còn mãi). Cái đau là ở những người như “chúng mình”. Tự hào có chúng mình mới có ngày 30 tháng Tư/ Đồng đội của tôi ơi hãy im lặng lắng nghe cả nước vỗ tay.
Có thể bạn đọc sẽ không đồng tình với ĐTT về cách nhìn và cách phản ánh, phân tích hơi quá đáng của anh về hiện thực. Cả tập thơ chỉ phản ánh hiện thưc đau lòng của số phận nhân dân, của người lính sau chiến tranh, hiện thực giả dối, hiện thực bất công của thời kinh tế thị trường, anh ước mơ trở về “ngày xưa”, thời chiến tranh, tuy gian khổ nhưng nghĩa tình chân thực, đằm thắm. Tuy không nói thẳng ra, nhưng anh đòi hỏi phải có một xã hội công bằng, “Cơm no, áo ấm nhà nhà”, đòi hỏi những người đã chiến đấu hy sinh phải được bù đắp xứng đáng. Anh ca ngợi cuộc sống thanh bần. Cái nhìn của anh bi quan trước hiện thực, có đôi khi anh thỏa hiệp với hiện thực (Mừng Thọ Bác Bùi Tứ Hải, Thiên Đường,…).
Thực ra chiến tranh đã qua lâu rồi (37 năm), chẳng còn ai mong trở về cái thời đau thương ấy nữa. Bây giờ là thời khép lại quá khứ hướng đến tương lai, thời của “nước giàu, dân mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”sẽ chẳng ai ngồi ôm đống xương người chết mà khóc (dù công việc đền ơn đáp nghĩa, tìm hài cốt liệt sĩ vẫn đang tiến hành), chẳng còn ai thích ăn rau tàu bay, dùng quạt mo cau nữa (Rau Tàu Bay, Mo Cau). ĐTT cố níu kéo cái thời quá vãng ấy, liệu anh có đủ sức không?
Cũng cần thấy điều này về mặt nghệ thuật, ĐTT có những phát hiện rất tinh tế, rất thơ cũng rất tư tưởng ở những sự vật sự việc của đời thường, qua đó anh đặt vấn đề làm “nhức đầu” người đọc (Hoa Lau, Rau Tàu Bay, Âm Thịnh, Tiền Xu, Mối, Nhắn Tìm Đồng Đội, Cấp Độ). Đọc những bài thơ này, người đọc vừa thấm thía, vừa thú vị. Thấm thía ở vấn đề anh đặt ra, thú vị ở nghệ thuật thể hiện. Xin đọc Tiền Xu và Cấp Độ là hai bài tiêu biểu. Tuy vậy không phải bài nào anh cũng thành công. Bình Quân và Ngậm Tăm là hai bài rất ít sáng tạo nghệ thuật. Bài Ngậm Tăm (07.2010) của ĐTT chắc chắn là sự diễn đạt lại dưới dạng thơ ý tưởng chủ đề của truyện ngắn Thói Ngậm Tăm (12.2007) của Khôi Vũ. Còn Bình Quân là câu chuyện giả định được kể nhiều trong dân gian để mỉa mai cách tính GDP theo bình quân đầu người. ĐTT chỉ ghi lại câu chuyện mà không có sáng tạo gì mới hơn. Bài Mèo thực sự chưa đem đến cho người đọc cảm xúc thẩm mỹ cần thiết để cảm nhận đó là một bài thơ, ngoài sự chia sẻ một nhận định bi quan của tác giả “Người đời ai chẳng một lần/ Mèo…!”
Có một con gà luộc
Bình quân cho hai người
Kẻ giầu thản nhiên chén
Người nghèo nhăn răng cười…
(Bình Quân)
Nếu Đào Trọng thử phát huy được mặt mạnh của mình cả trong thơ trữ tình và thơ châm biếm, anh sẽ có nhiều thành công hơn, bởi anh có được cái nền tình nghĩa sâu nặng với nhân dân, sử dụng được kỹ thuật thể hiện của nhân dân, và anh hòa mình vào trong nhân dân để cảm nhận, lên tiếng về những vấn đề của đời sống đương đại, mà tầm nhìn của anh vừa có chiều lịch sử, vừa có chiều hiện đại (Có Một Con Ngáo Ộp- Bột Đắng; Sen-Cấp Độ…). Trong tập thơ TRỐN anh không có bài thơ cách tân theo khuynh hướng của thơ Việt đương đại, tuy vậy tập thơ định hình được khuôn mặt thơ Đào Trọng Thử với hai nét sắc xảo là trữ tình và châm biếm. Đào Trọng Thử vẫn trung thành với con đường đi riêng trong cá tính sáng tạo, và ít nhiều anh đã có được thành công.
Dù sao ý niệm “trốn” trong thơ ĐTT cũng gợi ra thái độ an bần lạc đạo của nhà Nho xưa, tuy ĐTT chưa bao giờ là nhà Nho, mà tính cách của anh là tính cách con nhà lính.
Cháu nội cháu ngoại đầy nhà
Gặp nhau thì vẫn cứ là mày tao
Ngỡ như vừa mới hôm nào
Tha La, Vườn Mít, đội tao đội mày
Trộm rau bắt gặp thì “vay”
Mổ thương binh giỏi, đứ tay la làng
Lính quèn rất khoái xài sangh
Đèn Nghéo, đài Nhật nghênh ngang rừng già…
Chiến trường ôn lại mắt cay
Rưng rưng nhớ bạn bấy chầy “tiêu dên”
Miền Đông ác liệt nỡ quên?
Mất toi tuổi trẻ bắt đền ai đây?!
Ăn mừng cuối tháng Tư này
Sang năm gặp lại chúng mày Hăm ba…
(Ngẫu hứng K23)
_____________________________________
(1) Bài : Ba Mươi Năm Đời Ta Có Đảng-Tố Hữu:
Ðảng ta đó, trăm tay nghìn mắt
Ðảng ta đây, xương sắt da đồng.
(2) ĐTT diễu nhại bài thơ chúc Tết năm 1949 của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Kháng chiến lại thêm một năm mới,
Thi đua ái quốc thêm tiến tới.
Động viên lực lượng và tinh thần.
Kháng chiến càng thêm mau thắng lợi.
Người người thi đua
Ngành ngành thi đua
Ngày ngày thi đua
Ta nhất định thắng
Địch nhất định thua.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)