NGUYỄN NGỌC TƯ và hành trình đã đi…
Bùi Công Thuấn
Khi tôi viết những dòng này thì Nguyễn Ngọc Tư (NNT) đã được bao bọc bởi quá nhiều hào quang của sự thành công và những lời ca ngợi. Nhiều người đã viết về văn chương Nguyễn Ngọc Tư (1). Và tôi đã định không viết gì thêm về nhà văn này. Hãy cứ để cho những vòng hào quang tỏa sáng trên tên tuổi NNT và để những lời ngợi ca dành cho chị còn vang vọng mãi, bởi đó là tấm lòng của người đọc đối với nhà văn họ yêu mến. NNT là nhà văn nhân hậu. Chị xứng đáng được nhận những vòng hoa và những vương miện của lòng yêu thương.
Viết về NNT, tôi chỉ tìm hiểu con đường chị đã đi và đang đi tới, để may ra chia sẻ được với chị đôi điều gì chăng. Vì tôi đã nghe thấy tiếng chị kêu khẩn thiết : “…tôi đã thực sự nhìn thấy một bi kịch, là bạn đọc cứ trải chiếu ở cái chỗ Cánh Đồng Bất Tận và muốn tôi ngồi uống rượu mãi ở đó. Trong khi tôi muốn đi và thực sự đã đi rồi. Tại sao tôi cứ luẩn quẩn ở cánh đồng đó trong năm năm, mười năm và hai ba mươi năm nữa, mà không được đi uống rượu, ngắm cảnh ở không gian khác? Tôi biết, cái chỗ tôi muốn tới và thích tới không đông đảo người chờ đợi và chúc tụng; nhưng tôi tự hào là mình cũng chịu dời chân khỏi cái hào quang cũ mà đi.”(*)
Trong tiếng kêu khẩn thiết ấy, NNT đã ý thức phải quyết liệt vượt lên chính mình. Nhà văn không ngừng nghỉ trên hành trình sáng tạo. Hào quang chỉ là hào quang, biết đâu đó chỉ là ảo ảnh của những mục đích ngoài văn chương, ngoài tay với của NNT ? NNT hiểu giá trị đích thực của nhà văn là ở chỗ biết vượt lên chính mình, chứ không phải là mê đắm trong những huyễn hoặc. « Tôi biết, cái chỗ tôi muốn tới và thích tới không đông đảo người chờ đợi và chúc tụng; nhưng tôi tự hào là mình cũng chịu dời chân khỏi cái hào quang cũ mà đi. »
Nguyễn Ngọc Tư là ai trong mắt nhà phê bình ?
Trong những tác giả viết về NNT, có lẽ Nguyễn Trọng Bình là người có nhiều bài nghiên cứu về văn chương NNT nhất. Ông khám phá được nhiều mặt giá trị của văn chương NNT. Tuy nhiên, nếu tin vào những gì ông viết, thì người đọc sẽ thấy NNT độc đáo, tài năng và sâu sắc hơn hẳn tất cả các tác giả khác, từ Hồ Biểu Chánh đến Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn Huy Thiệp và cả Nguyễn Bính nữa (!) Có điều ông chỉ thấy được những giá trị xã hội học, giá trị văn hóa của văn chương NNT, mà không khám phá được thế giới nghệ thuật của NNT. Xin trích một nhận định của ông :” Có thể thấy, đa phần đối tượng mà Nguyễn Ngọc Tư phản ánh trong truyện ngắn của mình đều là những người dân sống ở thôn quê… có thể nói do được sống và lớn lên trên mảnh đất Nam bộ, những nét tính cách trong văn hóa ứng xử cũng như ngôn ngữ của cha ông đã ăn sâu vào tiềm thức của Nguyễn Ngọc Tư. Vì thế, khi sáng tác, những nét văn hóa “rặt Nam Bộ” ấy đã đi vào trang viết của chị một cách tự nhiên như một điều tất yếu không thể nào khác được.”
Nhận định như thế thì người đọc bình thường cũng có thể thấy được, không cần đến tài học của là nhà phê bình. Bởi nếu vậy thì văn NNT đâu có khác gì so với văn Sơn Nam hay Anh Đức. Nguyễn Trọng Bình còn đi xa hơn khi khẳng định giá trị tác phẩm của NNT :” Ở phương diện nào đó, đây là những lời quãng bá và “tiếp thị” bằng văn chương rất độc đáo Nguyễn Ngọc Tư về những nét đẹp của văn hóa làng quê đồng bằng sông Cửu Long.”
Tôi không rõ NNT có ý định viết văn để tiếp thị văn hóa hay không, nhưng tôi hiểu, nhà văn là nhà văn. Nhà văn là người khám phá và sáng tạo cái đẹp bằng ngôn từ. Không bao giờ nhà văn lại là người tiếp thị. Từ Cánh Đồng Bất Tận đến Gió Lẻ và Khói Trời Lộng Lẫy, NNT đã khẳng định mình là nhà văn, chị đang đi trên một con đường riêng, bỏ lại sau lưng những lời khen chê, vì chị thực sự nhìn thấy một bi kịch trong những lời khen chế ấy.
« tôi muốn đi và thực sự đã đi rồi. »
NNT đã đi từ những chuyện tình yêu lứa đôi lãng mạn đến những vấn đề xã hội gay gắt, đã viết những truyện đầy ắp những cảnh những người của đồng nước Nam bộ đến kiểu truyện tư tưởng ; và từ việc khai thác vốn sống đã trải nghiệm đến kiểu sáng tác truyện hư cấu (fiction) cần nhiều đến tài năng. Nói một cách khác, NNT đang đi về phía nghệ thuật hiện đại, đang chuyển từ cách viết thiên phú (cách viết bản năng) sang cách viết của một ý thức sáng tạo có chiều sâu nhân bản. Những đánh giá cho rằng NNT là đặc sản miền Nam, sáng tác của NNT là“hành trình” tìm về cội nguồn” ; “ một ý thức tìm về với văn hóa truyền thống của cha ông” có thể đã là xa lạ với con đường sáng tạo mà NNT đang đi.
Những chuyện tình yêu lứa đôi ở miền quê Nam bộ của NNT có nét riêng ở chỗ nhà văn chỉ kể chuyện tình, mà không đặt ra vấn đề xã hội nào (hoặc nếu có thì cũng rất nhẹ) . Đó là những cuộc tình tay ba dở dang, để lại nhớ thương khôn nguôi. Mỗi con người trong cuộc tình ấy đều sống trọn nghĩa vẹn tình. Họ sống với tình yêu được giữ gìn trong tâm tưởng (Thương quá rau răm, Hiu hiu gió bấc, Huệ lấy chồng, Nhà Cổ). Những truyện ngắn này mang phong vị lãng mạn của ca dao lứa đôi.
Những truyện tình về sau, NNT đi thẳng vào vấn đề xã hội, những bi kịch, đối diện với lương tâm và trách nhiệm. Sự căng thẳng, quyết liệt của vấn đề xã hội thay cho dư vị lãng mạn của tình yêu thăng hoa. NNT tỏ ra một ngòi bút có bản lĩnh. Chị xông thẳng vào thực tại gai góc, không né tránh vấn đề, nhưng chị đã giải quyết những bi kịch bằng cái nhìn nhân hậu. Mối tình năm cũ của chị Thấm với liệt sĩ Nguyễn Văn Thọ là một truyện nghĩa tình nhưng người đời làm cho nó trở thành bi kịch. NNT đã chạm được tới chiều sâu của tâm linh khi đặt lương tâm người đọc trước trách nhiệm đối với người đã hy sinh. Nước như nước mắt là nỗi oan khiên của Sáo. Chồng chị bị kẻ ác giết chết. Không thể trông nhờ vào công lý, Sáo quyết tâm trả thù. Oan khiên thay, kẻ thù lại là người yêu cũ của Sáo. Sáo đã đi theo tiếng gọi yêu thương trong lòng mình. Trong Trái tim khô, sự tàn bạo của người chồng đã làm cho trái tim của Hậu thành chai đá. Bởi vì Hậu đã phát hiện ra chồng thuê người đâm mình. Anh ta muốn thủ tiêu Hậu, người đã lần ra số tiền của công ty mà anh ta đã làm thất thoát. Cánh Đồng Bất Tận là cánh đồng thù hận của người cha khi mẹ Nương ăn nằm người đàn ông bán vải rồi bỏ nhà đi. Tình yêu không còn là bao dung, là những giá tri đáng tôn thờ, trái lại nó chứa đựng sự tàn nhẫn, nó hiện thân thành cái ác, lạnh lùng bất tận. Người đàn bà đi theo cha Nương đã phải thốt lên :” Má cưng ác một, nhưng người cha này của cưng ác tới mười”. Lời độc ác của người chồng (một quan chức) cũng đã giết chết người vợ trong Gió Lẻ. Người đàn bà ấy đã phải treo cổ để lại đứa con mới sáu tuổi. Đứa trẻ ấy sau này đi bụi. Và cô gái câm đi bụi ấy lại trở thành nguyên nhân cho người ta giết nhau. Khi đã thành con ma, nó vẫn tự hỏi ” Sao người ta có thể đem chuyện giết nhau làm trò đùa?”. Nguyên nhân cũng vì tình yêu? Trong Khói trời lộng lẫy, chuyện tình yêu là chuyện ngậm ngùi, bởi hậu quả của nó là những đứa con hoang “trôi đi không tăm tích gữa cuộc đời này” Tôi phải chia tay với anh vì anh có vợ là tiến sĩ, và vì anh còn phải giữ cái ghế viện trưởng của anh.
NNT viết nhiều về những đứa con hoang, đứa con lạc mất ngay trong gia đình mình, những đứa trẻ trôi dạt với một số phận bất định, đơn độc, vô vọng giữa cõi người. Có một mối đồng cảm, một mối bận tâm canh cánh trong truyện của NNT, bởi biết trách ai bây giờ? Bởi làm sao để bù đắp cho những mất mát không thể bù đắp được là tình người, tình thân ?
Phi sinh ra không có cha (Biển Người Mênh Mông). Phi ở với bà ngoại. Cha Phi đi kháng chiến về không nhận con. Má theo cha ra sống ở ngoài chợ khi Phi 5 tuổi rưỡi. Lớn lên Phi đi theo gánh hát, sống thui thủi một mình, lang bạt. Bằng ở với bà ngoại (Thềm Nắng Sau Lưng), luôn bị bà chửi “thằng cha mày không nên thân”. Cha Bằng bỏ đi. Mẹ Bằng cũng đi lấy chồng. Có lần cha về thăm, Bằng nói chuyện với cha như một người khách lạ. Rồi một ngày kia Bằng lên một chiếc đò ra đi, nhưng không biết mình sẽ đi đâu. Bé trong Rượu Trắng cũng là một đứa con hoang. Mẹ bỏ đi, Bé ở với bà ngoại. Lớn lên, bé lại sống với cái chất hoang của mẹ và bà, đơn độc giữa cuộc đời, khao khát yêu thương trong tuyệt vọng. Nương và Điền trong Cánh Đồng Bất Tận cũng là những đứa trẻ hoang dã. Mẹ bỏ đi, hai đứa theo cha trôi dạt. Chúng phải tự học tất cả, và đã phải trả giá. Cô gái câm trong Gió Lẻ cũng là một đứa trẻ bỏ nhà đi bụi. Không còn mẹ, không còn cha, không còn lại bất cứ kỷ niệm dấu yêu nào. Nhà của cha mẹ ngày xưa không còn là chốn em nương thân. Và em phải ra đi, trôi dạt bờ bụi. Bảy Trầu trong Khói Trời Lộng Lẫy cũng là một đứa con hoang. Cha bỏ mẹ đi lúc cô 4 tuổi, sau đó mẹ bị tai nạn chết. Rồi khi bà ngoại chết, không ai còn ký ức gì về cô, một đứa con hoang thai. “Tôi đã trôi đi không tăm tích gì giữa cuộc đời này”. Tại sao NNT lại viết nhiều về những con người bị thất lạc ngay trong gia đình mình, để rồi lạc mất giữa cuộc đời ? NNT không hề có lời nào phiền trách những người cha những người mẹ ấy, cũng không quy kết vào những nguyên nhân xã hội? Hơn thế cũng không đặt ra giải pháp nào để cứu lấy số phận những con người đáng thương kia? Câu trả lời có thể là, NNT cánh cánh bên lòng mối ưu tư ấy và nâng vấn đề xã hội lên thành chủ đề có tính tư tưởng. Những đứa con hoang ấy là hiện thân cụ thể nhất cho thân phận con người đơn độc, trôi dạt và lạc mất giữa cuộc đời này, không thể níu giữ bất cứ cái gì.
Khi viết về những vấn đề xã hội, NNT đặc biệt thành công trong việc miêu tả những nỗi đau, nỗi đau sâu thẳm của những vết thương tâm không sao hàn gắn được. Rất ít nhà văn trẻ làm được điều này. NNT có cái nhìn và sự cảm thông sâu sắc từ bên trong của vấn đề. Nỗi thương tâm của chị Thấm (Mối tình năm cũ) trước nghịch cảnh không sao cất thành lời, chị chỉ khóc. Trái tim phụ nữ là trái tim để yêu, vậy mà trái tim ấy trở nên khô khốc, vô cảm khi Hậu đối diện với sự tàn nhẫn đến độ bất nhân của chồng.
Cánh Đồng Bất Tận là sự thành công đặc biệt của NNT trong việc miêu tả nỗi đau, một nỗi đau bất tận trước những tình cảnh làm quặn thắt lòng người. Đó là hình ảnh người cha đau đớn run rẩy khi nghe tin vợ bỏ đi, bởi ông ta không thể tin đó là một sự thật. Ông hỏi vặn lại người đưa tin :”Bộ hết chuyện dỡn rồi sao, cha nội “. NNT đã nói thay tiếng lòng người đàn ông ấy :“Có vẻ khó tin, khi một người nghĩ rằng, chỉ cần mình hết lòng yêu thương, gánh hết sự kiếm sống nhọc nhằn thì sẽ được đền đáp xứng đáng”. Nỗi đau đã vắt kiện sức người cha, để rồi ông ta đốt nhà và dong ghe đi. “Chúng tôi dong ghe đi, quặn lòng ngoái lại nhìn căn nhà đang quay quắt giãy giụa trong lửa đỏ”. NNT cũng miêu tả được nỗi đau của sự tàn ác mà người cha của Nương gây ra cho những người đàn bà khác :”Với những người đàn bà sau này, cha tôi tính toán rất vừa vặn, sao cho vừa đủ yêu, vừa đủ đau, vừa đủ bẽ bàng, và bỏ rơi họ đúng lúc. Có người vừa bán xong cái quán nhỏ, có người vừa nói xong những lời dứt tình với chồng con. Có người vừa phũ phàng chia xong gia sản, có cô gái sắp về nhà chồng...hết thảy đều cun cút tin yêu. Cha mang họ đi một quãng đường vừa đủ ngưởi ở lại nhìn rõ chân dung của sự phản bội, sau đó người đàn bà bị hắt lên bờ. Con đường quay trở về bị bịt kín. Sẽ còn bao nhiêu người nữa được cha tôi cho nếm thử niềm đau kia..đằng sau khuôn mặt chữ điền ngời ngời đó là một hố sâu đen thẳm, bến bờ mờ mịt, chơi vơi, dễ hụt chân.”NNT đã diễn tả thật tài năng và xúc động nỗi bi thương che phủ cả bầu trời khi người cha phải chứng kiến cảnh con gái mình bị làm nhục. “bầu trời in sẫm. Mênh mông. Không biết đã tắt nắng hay mặt trời không với được ánh sáng đến nơi này”.” Ông ta đau đớn đến sững sờ vì bất lực :”Tôi khóc. Vì thấy ông đã kiệt sức, hoàn toàn. Và tôi buột miệng thất thanh : Điền! Điền ơi! Trước khi một tên gí đầu ông dập xuống bùn. Tiếng gọi ấy làm cha tôi đau đớn đến sững sờ, ông rướn ngước mặt về phía tôi, miệng há hốc “…Người cha cởi cái áo lên người để đắp lên đứa con gái. Ông ta bò quanh nó, tìm bất cứ cái gì có thể che cơ thể nó dưới mặt trời. Dường như đứa con gái đã chết, chỉ đôi mắt là rưng rức chớp mở không thôi”.
Trong Cánh Đồng Bất Tận không chỉ có mối thương tâm của người đàn ông mất vợ, nhưng còn nhiều nổi thống khổ khác. Nỗi đau của ”những cánh đồng trở thành đô thị… Những cánh đồng vắng bóng người, và lúa rày mọc hoang nhớ đau nhớ đớn bàn chân xưa nghẽn trong bùn quánh giờ đang vất vơ kiếm sống ở thị thành”. Nỗi đau trước “những đứa trẻ nhàu úa cộc cằn, cắm cẳn, chỉ tiếng chửi thề là tươi rói nhảy ra xoi xói ở đầu môi.. ngạo nghễ, tao không thích học. chừng nào lớn, tao đi chăn vịt. Má tao dặn, phải đánh chết tụi chăn vịt kia”. Nỗi đau trước sự trơ lì của những chị phụ nữ phài làm đĩ, chịu đủ mọi thứ nhục hình để sống kiếm sống. “Chị, cũng giống như họ, chớm tàn tạ, đói rã ruột ở thị thành mới chạy xuống quê, cất cái quán nhỏ, giả đò buôn bán bánh kẹo lặt vặt, thực chất là làm nghề”
NNT cũng khám phá và thể hiện xúc động những tình cảm thiêng liêng khác của con người Việt Nam. Đó là tình cha con của ông Năm Nhỏ (Cải Ơi). Ông chỉ muốn gọi to lên lời yêu thương Cải ơi, để đứa con lỗi phạm hiểu lòng ông mà trở về. Tiếng gọi thảng thốt của ông làm người đọc ngậm ngùi và buồn cười ứa nước mắt trước những chuyện ông làm để tìm con. Tình con thương mẹ của thằng Củi và tình mẹ thương con của côi gái tên Dịu đã cứu cho nhân vật thóat chết trong nỗi cô độc (Sầu Trên Đỉnh Puvan). Tình của đứa cháu với ông nội trong hoàn cảnh hãi hùng núi lở (Núi Lở) làm nao nao lòng người. Tình chị em dù mỏi mòn chờ đợi nhưng vẫn sáng ngời một niềm tin (Mộ Gió, Khói Trời Lộng Lẫy). Tình của những con người sống bờ bụi vẫn quan tâm xót xa trước cảnh ngộ của nhau (Hiểu lầm nho nhỏ về gia tài của cô gái nhỏ). Người đọc vui mừng khi hiểu ra cô gái nhỏ vẫn được giữ gìn trong tình yêu thương của ông già tẩm quất. Ở những truyện mà nội dung và vấn đề xã hội có vẻ lấn át, thì tình cảm vẫn được NNT miêu tả như một mạch sống ngầm, tạo nên giá trị nhân văn cho câu chuyện.
Những truyện tình yêu viết về người trẻ hiện đại của NNT không thành công bằng những truyện tình yêu đồng quê của thế hệ những ông, những bà đã già. Duyên Phận So Le viết về những cô gái lỡ thì ở khu du lịch văn hóa So Le, Có con thuyền đã buông bờ viết về những mơ mộng cô gái giúp việc nhà, Tình Thầm viết về cô gái lái xe yêu thầm đại gia, Osho và bồ, là những truyện không gây được ấn tượng gì sâu đậm. Có lẽ vốn sống về những kiểu nhân vật này ở NNT chưa đủ làm nên nghệ thuật chăng?
Nhưng những truyện viết về khát vọng sex lại thấm thía ý nghĩa nhân bản, bởi NNT đã soi rọi được chất người vào những hành vi bản năng mà dưới góc nhìn đạo đức, sex luôn bị phê phán. Bút lực của NNT có chiều sâu văn hóa và sức ám ảnh. NNT gợi trong lòng người đọc những nghĩ suy rất tinh khôi về sex, không phải qua lăng kính đạo đức, cũng không qua chủ nghĩa sex phương Tây. Khát vọng yêu thương và đòi hỏi tính dục của cả bà và cháu trong Rượu Trắng là những ngọn lửa nồng cháy. Nhưng hoàn cảnh đã phủ lấp lên những khát vọng ấy. Tình cảnh của cả hai bà cháu đáng thương xiết bao. Người đàn bà trong Một Chuyện Hẹn Hò bơi xuồng đến nơi hẹn trong cơn mưa bão. Sau những phút vui ngắn ngủi với người tình, mặc cảm đạo đức đã vùi lấp chị trong lòng sông dông bão . Chị chấp nhận chết với tình, bất chấp những kẻ “miệng nói đạo đức, chê mấy truyện trai gái là hạ tiện tục tĩu, nhưng với bạn tình vẫn háo hức”. Truyện Của ngày đã mất là truyện của ông thầy 69 tuổi đi du khảo với cô học trò 20. Cô ta thích thầy, và thầy luôn ý thức mình già để từ chối tỏ tình. Ông thầy đã trải nghiệm cái thực tế này, sex là sự sống. Ông đang mất dần sự sống. “Những ngón tay cũng khô khi tôi lần vào ngưc em trong tối đầu tiên. Em giấu nụ cười trong chiếc mền, “được nằm kế bên thầy, thích lắm”. Cái cảm giác mình đang khô đi khiến tôi rã rời, hầu như không còn cơn rạo rực nào khiến tôi có thể ôm lấy em”.Trong Cánh Đồng Bất Tận, NNT đã miêu tả tình cảnh thật đáng thương của Điền khi cậu ta phải “chối bỏ niềm vui được trở thành một người đàn ông thực thụ”. Qua lời Nương, NNT lý giải nỗi bi thương ấy ở Điền :”Nó tự kìm hãm bản năng trỗi dậy mạnh mẽ ở tuổi dậy thì bằng tất cả sự miệt thị, giận dữ, căm thù. Nó phản kháng bằng cách trút sạch những gì cha tôi có, cha tôi làm. Nó giãy giụa đến rã rời, nhiều bữa nó dầm mình dưới ao đến khi người tái nhợt. Nó chạy như điên trong đêm, trên những bờ ruộng mướt cỏ đến khi mỏi nhừ, gục xuống. Rồi nằm xoãi trên đồng, tả tơi”. Cũng qua lời Nương, NNT đã phải thối lên :”Không phải vậy, không phải vậy Điền ơi, tôi muốn kêu lên, tiếc là sự thất học khiến tôi không diễn đạt được bằng lời. Tôi không chắc lắm, nhưng dục tình và xác thịt không xấu xa, không đáng khinh bỉ, không phải là nguyên nhân đẩy chị em tôi đến cuộc sống này với những đổ vỡ này...”.Tôi đã không kềm được xúc động khi đọc những dòng đầy tính nhân bản NNT viết về Điền. Sex được miêu tả như là bản thể của sự sống mà Điền vì không hiểu đã tự vùi dập sự sống của chính mình.
…đi về phía nghệ thuật hiện đại
NNT đã đi từ truyện phản ánh hiện thực đến kiểu truyện tư tưởng, từ truyện khai thác chất liệu đời sống đến kiểu truyện hư cấu ; và từ nhà văn của một vùng miền, NNT nâng mình lên tầm vóc nhà văn của thời đại mình đang sống. Hành trình này không thuận lợi, bởi độc giả đã quen đọc truyện hiện thực, truyện tình miệt vườn; bởi có nhà phê bình đã đóng dấu và dán nhãn mác NNT là “đặc sản miền Nam” , và hành trình sáng tạo của NNT là hành trình về nguồn, NNT là người gìn giữ “nét đẹp văn hóa làng quê đồng bằng sông Cửu Long”
Trong các tập Cánh Đồng Bất Tận, Gió Lẻ và Khói Trời Lộng Lẫy, sự sắp xếp thứ tự các truyện cũng định rõ con đường này, con đường hướng đến kiểu truyện hư cấu, truyện tư tưởng. Những truyện ở đầu tập là truyện hiện thực. Bối cảnh, con người, sự việc là có thực trong đời thường. Nhưng những truyện chủ lực của tập truyện lại đứng sau, đó là truyện tư tưởng. Nhân vật là hư cấu, bối cảnh thời gian không gian bị xóa nhòa, tác giả không phản ánh hiện thực nhưng kể truyện để thể hiện tư tưởng.
Tư tưởng về sự trừng phạt nhân quả được tô đậm trong Cánh Đồng Bất Tận. Người cha đã hành xử ác với bao nhiêu là phụ nữ thì chính ông ta phải chứng kiến sự trừng phạt của cái ác trên thân xác đứa con gái của mình, không thể khác được. Cánh Đồng Bất Tận còn dự báo nhiều sự trừng phạt khác mà người đọc có thể cảm nhận được, bởi đó là cánh đồng của sự căm thù, bởi “những cánh đồng đó đã hất hủi cây lúa (và gián tiếp từ chối đàn vịt). Đất dưới chân chúng tôi bị thu hẹp dần...Tôi đã gặp nhiều đứa trẻ tên Hận, tên Thù...”. Tuy vậy, hình tượng trong Cánh Đồng Bất Tận chưa phải là hình tượng tư tưởng. Có chăng NNT thể hiện cái kinh nghiệm này của dân gian, rằng “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. NNT để cho Nương, một cô gái hiền lành, giàu tình nghĩa, rất mực nhân hậu lại phải trả giá cho cái ác của người cha. Giải pháp này thật không thuyết phục. Bởi nghiệp quả ai làm nấy chịu. Tại sao Nương phải chịu nghiệp quả của cả cha lẫn mẹ! Có chăng cái vòng luân hồi này rồi sẽ lại tái diễn, ấy là Nương đẹp và giống má khủng khiếp. Nương đã mơ hồ dự cảm về thân phận mình :” Ý nghĩ mình là bản sao của má làm tôi sợ. Tôi không chắc mình có đủ kiên nhẫn sống cuộc sống nghèo túng, nhàm chán ấy suốt đời, hay nửa chừng bỏ dở.Và bi kịch chất đống lên những người ở lại”. Kinh nghiệm dân gian cho biết con gái giống mẹ. Nương rồi cũng sẽ lặp lại những bi kịch như người mẹ của mình. Rất may là cuối tác phẩm, Nương ý thức được con đường vượt qua nhân quả ấy. Nương chấp nhận hậu qủa việc bị hiếp và có con. Nương “nhất định sẽ đặt tên con là Thương, là Nhớ hay Dịu, Xuyến, Hường...Đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời, vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn “
Gió Lẻ khám phá một tư tưởng khác, ấy là, cõi người là nơi của dối trá và bạc ác. Tư tưởng này được thể hiện trong hình tượng cô gái câm (Mỹ Ái) bỏ nhà đi bụi, từ chối nói tiếng người, bởi “ nói-giống-người thì em cũng phải nói những lời dối, gây đau có thể giày vò nhau”. “Em sẽ vĩnh viễn nói kiểu của chim hay của những con bò”. Từ đấy mỗi lần nghe con người nói lời dối trá em lại nôn, nôn thốc nôn tháo. Tiếng nói con người đã giết chết tất cả những gì yêu thương. Chỉ vì một chuyện nhỏ em gây ra mà cha mẹ cãi nhau. Cha đã nói một câu độc ác “Cô lấy thằng nào đẻ ra cái thứ này”. Ba giờ sau cha tìm thấy mẹ treo mình đu đưa trên xà nhà. Thời gian Mỹ Ái ở Mai Lâm coi rẫy cho ông Tám Nhơn Đạo, có lần ông đè em xuống tấm ván và lần tay vào áo em. Em đã gào lên như tiếng chó tru. Bà Tám khóc. Chắc là biết chuyện. Bà đã ném vào mặt em một câu độc ác :”Con đĩ! Sao mày còn lảng vảng ở đây?” Em phải ra đi. Ông Buồn và anh Tìm Nội cho em theo xe chở hàng. Một lần xe ngừng, người tài xế vào nhà ăn nằm với người vợ hờ. Khi em vào nhà rửa mặt, chị ta ném theo em một câu nguyền rủa :”Ăn ngủ dầm dề với tụi lái xe tải đường dài, thứ con gái tệ hơn giẻ rách”. Ngày em được ba tìm thấy và đưa về nhà, “ em thực không tin đây là nhà mình. Nơi này thuộc về Cha và chị Băng cùng với đứa con”. Em lại bỏ đi, Chị Băng tiễn em bằng một lời tiên tri :”Con nhỏ đó thế nào cũng chết sớm,”
Cô gái câm ấy đã nhìn thấy, ở đâu con người cũng bạc ác và dối trá. Trong gia đình mình, người cha giả hình hơn ai hết. Khi cha đưa em về nhà, em nhớ nhiều người mang hoa đến chúc mừng cha. Họ ngưỡng phục cha vì không ngờ cuộc đời ông chủ tịch lại nhiều bi kịch như vậy. Vợ đầu chết, con gái thất lạc gần 10 năm trời. Phải có ý chí cao, nghị lực khủng khiếp mới vượt qua được. Ai cũng khen chị Băng, vợ lãnh đạo, chịu cực giỏi, nuôi cá sấu xây nhà. Nghe những lời ấy em buồn nôn không kềm chế được. Ngày khách nhiều em nôn nhiều. Một trường hợp khác, Lúc ở trường quay chương trình “Giã từ lưu lạc”, người ta phỏng vấn ông Tám Nhơn Đạo (cái ông đã đè em ra trên ván và luồn tay vào ngực áo em). Ông nói, ông tìm thấy em ngồi đói rách trong chợ, ông đã nuôi nấng, yêu thương che chở em như con đẻ của mình. Em nôn thốc nôn tháo. Một cái vòi đắng nghét từ miệng em phun ra. Cả trường quay nhốn nháo. Em nghĩ, nếu con chim hót dối rằng mùa xuân đã về, hoặc con chó sủa dối rằng kẻ trộm tới thì em sẽ không sao.
Cô gái câm ấy đã nhận ra mình không còn tồn tại trong cõi người này nữa, nhưng trong linh hồn cô vẫn khao khát tình yêu thương . “Ban trưa khi nghe tiếng rao chè ơi hỡi ơi, hay tiếng gọi nhau vời vợi em bỗng thèm nói- giống- người để an ủi anh Tìm Nội và nói chuyện với Ông Buồn, em thích ông cười. Có buổi chiều ngồi ở cabin, em nghe trong nhà chị đàn bà chăm sóc ông Buồn, nghe những âm thanh của một gia đình đầm ấm. “Em bỗng cuộn lại vì một cơn gió lẻ đi qua, buốt tận xương”.
Trong Gió Lẻ, tư tưởng của NNT đã nhuốm màu bi quan nếu không nói là tuyệt vọng về cõi người. Cô gái câm ấy từ chối trở về nhà mình, từ chối nói tiếng người và sau cùng chết dữ dội, không cưỡng lại được. Ông Buồn đang dùng đèn pin hướng dẫn xe ở phía trước. Đêm tối, Dự lái xe phóng thẳng vào ông ta, cố ý giết ông ta. Em đã níu tay Dự, chiếc xe chao nghiêng và lao xuống vực, “Em nghe một đoạn âm thanh rất nhanh bên mình, và em kịp nhớ nó giống hệt của người thanh niên xoáy ngọn dao vào tim chị đàn bà ở giữa chợ”. Rồi “em thấy mình thực sự trôi, bồng bềnh và mộng mị trong một không gian tối dần, tối dần và rồi, bóng tối bắt đầu vô tận”. Cái chết cũng không cứu rỗi được em. Trong cõi người, em sống trong câm lặng. Ở cõi ma, em bồng bềnh trong bóng tối vô tận. NNT không tìm thấy con đường nào hé lộ một chút ánh sáng cho nhân vật của mình.
Khói Trời Lộng Lẫy chìm đắm trong một tư tưởng khác. Con người phải mang lấy thân phận cô đơn, trôi dạt giữa cuộc đời này. Không thể níu giữ được bất cứ cái gì, giống như “làm sao giữ được vẻ đẹp lộng lẫy này của khói...” Không có gì là vĩnh viễn.Tư tưởng ấy được tô đậm bằng một cấu trúc nhiều lớp truyện. Đó là sự biến mất của thiên nhiên mà Viện di sản thiên nhiên và con người không sao giữ được , bởi ”không con nào tàn phá gây hại như con người, đi tới đâu thiên nhiên lụn bại tới đó”. Đó là tình yêu mê đắm của Bảy Trầu, “có bao nhiêu tình tôi yêu hết”, người yêu hiển hiện trước mặt nhưng không sao ôm giữ được, đành như hai kẻ xa lạ rồi lạnh lùng chia tay. Đó là Phiên, 14 năm Bảy Trầu đem nó trốn đến xóm Cồn để giữ vẻ đẹp trong veo của nó, nhưng khi người đàn ông lạ xuất hiện thì Bảy Trầu có cảm giác “thằng nhỏ đang rời đi xa lắm rồi. Nó đi trên chiếc xáng cơm cùng những gã đàn ông lạ. Chiều qua, chiếc xáng đã nhổ neo rời khỏi cồn”. Cái còn lại là tôi. “Tôi là tôi, trơ trụi xơ rơ, gân guốc bụi đời, và rửa mặt mỗi ngày bằng nỗi muộn phiền bảng lảng”. “Nhưng hơn ai hết tôi biết không có gì vĩnh viễn”. “Tôi đã trôi đi không tăm tích gì giữa cuộc đời này, thỉnh thoảng có ai đó níu lấy rồi buông bỏ...Vì tôi là đứa con hoang, ngay cả khi gặp lại cha tôi, “trong ký ức ông không còn hình ảnh nào của tôi, đã dứt bằn bặt.”
Rõ ràng NNT đang đi về phía viết truyện tư tưởng, loại truyện vượt lên rất xa cách viết bản năng. Để thực hiện cuộc ra đi này, NNT đã chuyển hóa triệt để kỹ thuật viết truyện của mình. Ở những truyện tình quê, NNT viết là để phản ánh hiện thực. Truyện được kể theo cấu trúc truyền thống. Mỗi truyện đều có một cốt truyện rõ ràng, mạch truyện phát triển theo tuyến thời gian, xoay quanh những đột biến của số phận nhân vật. Giọng kể là giọng của quần chúng. NNT đem nguyên văn ngôn ngữ, giọng điệu, cách nói năng diễn đạt và cảm xúc của quần chúng vào truyện. Xin lắng nghe nguyên chất khẩu ngữ Nam Bộ Hiu Hiu Gió Bấc:
“Lụi hụi rồi bốn mùa gió bấc về kể từ mùa gió chị Hoài lấy chồng. Ba anh Hết thường chống đũa trên mâm cơm than ăn không vô. Anh hỏi ông thèm gì. Ông bảo chắc tao gần chết rồi, tao thèm một thằng cháu nội. Hết lượng sượng mãi mới cười: "Trời, thèm gì ngặt vậy, không biết con biết kiếm đâu cho tía bây giờ". Tía anh Hết biểu lại đằng quán con Hảo lỡ thời mà kiếm. Mày giả đò hoài, con nhỏ thương mày, ai cũng biết, chỉ mày là không. Anh Hết cãi, làm gì có, tía. Ông già đứng dậy, vậy phải thử. Nói rồi vung gậy đánh. Như mấy lần trước, anh Hết lại chạy lừng khừng ra sân. Rượt chán, ông già dứ dứ cây gậy vô mặt anh rồi tủm tỉm cười quay đi. Ông già còn kịp thấy chị Hảo chạy lại vẹt đám con nít ra, đưa anh chai dầu Nhị Thiên Ðường, miệng xuýt xoa hỏi anh đau chỗ nào, giọng như người thân thiết trong nhà: "Làm gì mà để tía giận dữ vậy, lén chơi cờ phải hôn?". Anh Hết không trả lời, cầm chai dầu còn ướt mồ hôi tay của chị. Ðây đã là chai thứ chín chị cho anh, anh khẽ bảo:
- Hảo, tôi... cảm ơn.
Anh ngần ngừ sau chữ "tôi" hơi lâu, làm chị Hảo chờ muốn nín thở. Ơn nghĩa gì một chai dầu gió, nó chỉ làm anh hết đau ngoài da thịt, mà trong lòng thì còn mãi. Chi vậy Hết ơi! “
Nhưng khi chuyển sang kiểu truyện hư cấu thể hiện tư tưởng, thì nhân vật không còn là nhân vật hiện thực (chẳng hạn trong đời thực sẽ chẳng thể có cô gái nào nghe người khác nói mà nôn như Mỹ Ái). NNT nhập thân vào nhân vật để kể (Nương, Mỹ Ái, Bảy Trầu). Giọng văn bây giờ là giọng của nhân vật, giọng buồn, bởi thân phận họ buồn và câu chuyện họ kể là chuyện buồn, đôi khi có pha chất triết lý. Bối cảnh đời sống hiện thực chỉ còn là bóng mờ. Cấu trúc truyện được xáo trộn triệt để. Thật khó lần ra một cốt truyện có đầu có đuôi. Người đọc phải vừa đọc vừa đoán chừng, vừa ráp nối, xâu chuỗi sự việc lại theo một logic nào đó để hiểu cố mà hiểu. Vì thế Gió Lẻ và Khói Trời Lộng Lẫy không dễ đọc. NNT trộn lẫn cảnh hiện tại với những hồi tưởng, những hổi tưởng không theo thứ tự thời gian, trộn lẫn thực tại với những giấc mơ. Nhân vật xuất vía đi nơi này nơi kia, gặp gỡ người này người kia. Đó là thật hay ảo ? (Đoạn 2- Khói trời Lộng Lẫy). Cũng vậy, sự trùng khít những đặc điểm giữa người yêu mà Bảy Trầu đang đi tìm, với anh viện phó Viện di sản thiên nhiên và con người làm người đọc hoài nghi, không biết họ có thực là người yêu nhau không. Bởi nhân vật Tôi kể chuyện tình với anh, như kể về hai kẻ xa lạ. Diễn biến của cốt truyện được thay thế bằng không gian tâm trạng. Không gian thực nhoà đi. Mỗi phân đoạn là một mảnh tâm trạng của nhân vật về sự việc nào đó, lẫn lộn hiện tại với quá khứ. Trong Gió Lẻ, góc trần thuật thay đổi liên tục giữa nhân vật Em, Dự rồi ông Buồn. Đoạn văn sau đây là một phân đoạn trong Gió lẻ, hoàn toàn là tâm trạng.
“Em thích nhìn gương mặt người chủ xe sau buổi cà phê sáng. Môi ông ngậm một điếu thuốc lơ đãng, lên ngồi sau tay lái và im lặng một thoáng, trước khi vào cuộc hành trình. Khói thuốc cùng những giọt cafe còn đọng trên bộ râu tua tủa làm vẻ mặt của ông lung linh. Sau đó thì khuôn mặt chỉ còn một sự trầm mặc quánh lại, và trên người ông chỉ còn nhịp điệu của nỗi buồn.
Một con người buồn bã.
Mỗi lần qua một khúc quanh, hay khi phải phóng tầm mắt xa về phía trước, em nhận ra nhịp tim của ông giống hệt em, máu chảy về đó rất ơ hờ, lãnh đạm, tựa như không máu cũng chẳng sao, tim vẫn lay đúng nhịp. Không có gì sau ngã rẽ này hay phía trước kia, chờ đợi.
Người còn lại ngồi cạnh em thì ngược lại, hơi thở của anh ta luôn rộn ràng. Anh háo hức chăm chút từng khoảnh khắc, từng biến đổi cảnh sắc trên từng đoạn đường mà chiếc Landu cũ kỹ đi qua. “(Gió Lẻ)
Nỗ lực “ra đi “ trên con đường sáng tạo của NNT thật đáng trân trọng. Những gì chị đã viết được đủ khẳng định một tài năng, và tài năng ấy còn nhiều hứa hẹn. NNT đã viết được những truyện hư cấu, những truyện tư tưởng, đặt trong những kiểu cấu trúc tác phẩm khác nhau. NNT đã vượt lên trước so với nhiều tác giả trẻ cùng thời. Tuy vậy NNT chưa xây dựng được nhân vật tư tưởng –thẩm mỹ. Nhân vật cô gái câm buồn nôn trong Gió Lẻ chưa thể sánh được với Antoine Roquentin trong La Nausée (Buồn Nôn) của J.P.Sartre. Những tư tưởng của NNT mới chỉ được lắp ghép vào nhân vật, được nhân vật nói ra công khai, chưa chuyển hóa thành chính bản thể thẩm mỹ của nhân vật. Và theo chiều hướng viết của chị, những tư tưởng xuất hiện ngày càng bi quan, mặc dù nó có giá trị nhân văn sâu sắc. Cũng cần thấy rằng những tư tưởng trong truyện của NNT không phải là suy tư triết học hay dòng chảy tâm thức của thời đại (thí dụ tâm thức Hậu Hiện Đại), NNT chưa đạt tới tầm tư tưởng như vậy. Sự trừng phạt nhân quả trong CĐBT chưa đạt tới triết học nhân quả của Phật giáo. Những suy tư về con người gian ác, con người cô đơn trôi giạt trong Gió Lẻ và Khói Trời Lộng Lẫy chưa phải là trải nghiệm Hiện Sinh, cũng không phải là sự khám phá tâm linh về thân phận con người như trong niềm tin của tôn giáo.Vì thế sự thành công của NNT ở những truyện tư tưởng là còn rất hạn chế.
”có bao nhiêu tình tôi yêu hết”
Tôi yêu quý ngòi bút nhân hậu của NNT trong tất cả những truyện của chị, bởi đó mới chân thực là văn NNT. Sự nhân hậu thể hiện thái độ cảm thông, thấu hiểu đối với nhân vật. Chị nhập thân vào nhân vật để nói lời chia sẻ. Nhân vật của chị hầu hết là những người trong những cảnh đời khốn khó. NNT luôn biết cách hoá giải những bi kịch bằng tình thương yêu, bằng thái độ trân trọng con người, đặc biệt là sự nâng niu nỗi đau, những khát vọng và những cảnh ngộ làm con người tha hóa. NNT có những nhân vật thật đặc biệt như con vịt tên Cộc (Cái Nhìn Khoảnh Khắc), con bìm bịp (Biển Người Mênh Mông ), con chó tên Cò (Gió Lẻ), đó là những con vật tri kỷ nghĩa tình của người, biết nói tiếng người, chia sẻ nỗi cô đơn với người. Chúng góp phần làm nên đặc sắc văn chương NNT. Ở một phương diện khác, NNT có nói đến những khiếm khuyết của con người, những tiêu cực xã hội, nhưng không phải để phê phán mà để lay động lương tâm người đọc. Và trên hết văn NNT là để nói cái tình, cái tình người sâu thẳm trong những biểu hiện thật phong phú. NNT nói :”có bao nhiêu tình tôi yêu hết”.
Tôi hiểu NNT viết văn là để được sống yêu thương. Chị nói: ”ai cũng cần được yêu thương. Mà muốn được vậy, phải biết chia sẻ lòng nhân từ, sự quan tâm từ chính trái tim mình trước nhất.”(2)Nhưng viết văn còn là hành trình đơn độc, như người lên núi, chị ý thức rất rõ điều này:” Trên con đường lên núi, đôi khi tôi muốn dừng lại nghỉ chân, và gắng giữ mình đừng bao giờ bị lùi bước. Càng lên cao, càng vắng người, càng cô đơn. Nhiều khi tôi sợ.”(3)Vâng, chị Nguyễn Ngọc Tư, đừng bao giờ lùi bước, vì xung quanh chị có bao nhiêu người đang cùng chia sẻ với chị nỗi cô đơn và sự vất vả, và hơn thế, họ yêu chị bởi chị là một nhà văn nhân hậu.
Tháng 4.2011
______________________________
(1)Trần Hữu Dũng, Hoàng Thiên Nga, Nguyên Ngọc, Thụy Khuê, Nguyễn Trọng Bình, Cao Huy Thuần, Kiệt Tấn,
Võ Đắc Danh, Bùi Đức Hào, Nguyễn Thị Hoa, Ngô My, Phạm Phú Phong, Nguyễn Thanh Tú, Vũ Bích…
http://www.viet-studies.info/NNTu
(*) http://www.viet-studies.info/NNTu/VoDacDanh_NguyenNgocTu.htm
(2) http://edu.go.vn/e-tap-chi/tin/3/115/2175/nguyen-ngoc-tu-so-nhat-la-su-vo-cam.html
(3) http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=3939
Sáng tác ca khúc, truyện ngắn và phê bình văn chương của Bùi Công Thuấn. Bạn cũng có thể đọc BCT tại http://yume.vn/buicongthuan
Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2011
Thứ Năm, 7 tháng 4, 2011
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT VÀ NHÀ PHÊ BÌNH
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT VÀ NHÀ PHÊ BÌNH
Bùi Công Thuấn
Đối tượng của nhà phê bình là tác phẩm văn chương, nhưng làm thế nào để đọc được mã nghệ thuật của tác phẩm, quả thật không dễ dàng chút nào. Với những tác phẩm được viết bằng tư duy nghệ thuật đi trước thời đại, chắc chắn nhà phê bình chỉ có thể đứng chiêm ngưỡng tòa lâu đài kỳ lạ đó mà thôi. Đỗ Lai Thúy đã nhận xét thế này về Hoài Thanh :” Thị hiếu của Hoài Thanh chỉ dừng lại ở thẩm mỹ lãng mạn, mà chưa vượt sang được Tượng trưng và Siêu thực như chính bản thân Thơ Mới. Vì vậy, một mặt ông đưa vào Thi nhân Việt Nam rất nhiều những nhà thơ lãng mạn bàn nhì, bàn ba, mặt khác lại sập cửa trước mũi các thi tài Tượng trưng lớn như Đinh Hùng, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Xuân Sanh. Và chính ông, Hoài Thanh, cũng nhiều lần thừa nhận mình không tìm được lối vào cổng chính của thơ Bích Khê, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử”(1)
Ở Việt Nam, người ta đã quá quen với phương pháp tiểu sử của Charles-Augustin Sainte-Beuve (1804-1869) và phương pháp phê bình Marxist. Hai phương pháp này có nhiều ưu điểm, giúp soi sáng nhiều vấn đề đối với những tác phẩm được viết bằng bút pháp Hiện Thực. Nhà phê bình tìm hiểu tiểu sử tác giả, rồi dùng tiểu sử ấy lý giải và đánh giá tác phẩm. Chẳng hạn, tại sao nhân vật Từ Hải trong Đoạn Trường Tân Thanh phải chết oan, để rồi Nguyễn Du phải đắng cay ngậm ngùi !“hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn” ? Bởi vì Nguyễn Du là ông quan phong kiến, không thể cùng một lúc thờ hai vua, vừa ca ngợi Gia Tĩnh, vừa ca ngợi Từ Hải. Mặc dù Từ Hải là một nhân vật lý tưởng của Nguyễn Du, nhưng Từ Hải phải chết. Cũng vậy, tác phẩm của Nhất linh, Khái Hưng, Vũ Trọng Phụng một thời bị coi là “có vấn đề” bởi thái độ chính trị của tác giả. Phê bình tác phẩm văn chương trở thành sự kết án con người xã hội của tác giả. Tác phẩm văn chương trở thành chứng cớ kết tội. Có nhà văn đã phải sống cái kiếp nạn văn chương hết cả một đời con người.
Phương pháp phê bình Marxist tập trung xem xét mối quan hệ của văn học với hiện thực. Giá trị văn chương của tác phẩm là giá trị phản ánh hiện thực. Tác phẩm văn chương phải góp phần vào cuộc đấu tranh giai cấp của nhân dân. Hòn Đất, Người Mẹ Cầm Súng, Sống Như Anh, Rừng Xà Nu đáp ứng những yêu cầu này. Hạn chế của các phương pháp này là không thâm nhập khám phá thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Nhà phê bình không chỉ ra được giá trị thẩm mỹ của tác phẩm là gì, đâu là cá tính sáng tạo của nhà văn. Phê bình văn chương trở thành phê bình xã hội học, thái độ phê bình trở thành thái độ chính trị. Cánh Đồng Bất Tận, Trăng Nghẹn trở thành tác phẩm “có vấn đề” dưới góc nhìn của hai phương pháp phê bình “truyền thống” bởi lý do đó.
Nếu áp dụng hai phương pháp ấy để đọc thơ Lê Đạt, Hoàng Cầm, Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền thì nhà phê bình sẽ phải bỏ cuộc. Xin đọc
“Tóc trắng tầm xanh qua cầu với gió
Đùi bãi ngô non
ngo ngó sông đầy
Cây gạo già
lơi tình
lên hiệu đỏ
La lả cành
cởi thắm
để hoa bay
Em về nói làm sao với mẹ…”
(Quan họ-Lê Đạt)
Bài thơ trên phản ánh điều gì? Thể hiện cái nhìn giai cấp thế nào và góp phần thế nào vào cuộc đấu tranh giai cấp ? tất nhiên là không có câu trả lời, và nếu có cũng không quan trọng, bởi cần phải chỉ ra được những cách tân trong thơ Lê Đạt, bài thơ ấy hay ở những yếu tố nào? Tiếng nói nghệ thuật của Lê Đạt có gì đặc sắc? Lê Đạt làm thơ là tạo ra “bóng chữ”. Đọc thơ Lê Đạt là đọc “cái bóng” do con chữ gợi ra. Nghĩa của thơ không nằm trên mặt con chữ, có khi không cần hiểu nghĩa. Hãy bắt đầu thâm nhập thế giới nghệ thuật của bài thơ từ chữ “cởi thắm”. Hai chữ này tự nó không có nghĩa, nhưng nó dẫn người đọc liên tưởng đến hai bài ca dao tạo nghĩa, đó là bài ca dao về “một cô yếm thắm bỏ bùa… ” và bài Qua cầu gió bay. Lê Đạt vẽ ra một khung cảnh tình tự. Có hai người đang yêu nhau dưới gốc gạo già, rực rỡ hoa đỏ. Dòng sông nước đầy, bờ bãi ngô non. Cô gái đã cởi hết những gì phong kín hương trinh nữ, lồ lộ gọi mời. Đùi trắng như ngó sen, ánh mắt lơi tình la lả… Nhà thơ hướng ống kính camera lên cây gạo già để tả cái say tình của cô gái. Sắc hoa đỏ là tình yêu đang nồng cháy và hoa bay là sự thăng hoa của những cơn yêu không còn kềm giữ. Người con gái ấy đã để cho chàng cởi yếm thắm để nâng niu ngọc ngà, bây giờ “em về nói làm sao với mẹ”. Cởi áo cho nhau thì còn dối mẹ rằng“qua cầu gió bay”. Cởi yếm cho nhau thì dối mẹ làm sao? Hai hình ảnh thiên nhiên và con người chồng lên nhau. Chăm chú nhìn, người đọc sẽ chỉ thấy thiên nhiên, nhưng rõ ràng bài thơ là một clip yêu đương nhục thể, bên bờ sông, dưới gốc cây gạo già và bờ bãi ngô non thân quen. Cái hay của nhà thơ là diễn tả chất say đắm nhục thể của tình yêu bằng những “bóng chữ”, đủ sức gợi ra bao điều thú vị trong lòng người đọc.
Tôi vừa đọ thơ Lê Đạt với một cách đọc khác với phương pháp phê bình truyền thống. Thơ Bùi Giáng không đọc theo cách đọc “bóng chữ” của thơ Lê Đạt.
“Hỏi tên rằng biển xanh dâu
Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên rằng một, hai, ba
Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm
(Bùi Giáng- Người định đi tu)
Đoạn thơ gợi ra hình ảnh Mã Giám Sinh trong Đoạn Trường Tân Thanh:
Hỏi tên, rằng :”Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng :”Huyện Lâm Thanh cũng gần”
Quá niên trạc ngoại tự tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao
Nếu nhà phê bình cứ chúi mũi vào giải mã từ ngữ đoạn thơ Bùi Giáng theo cách đọc truyền thống thì dù có vò đầu bóp trán đến mấy cũng không thể vỡ ra nghĩa câu chữ Bùi Giáng định nói gì. Nguyễn Du tả Mã Giám Sinh bằng bút pháp ước lệ, giống như thật. Trái lại, thơ Bùi Giáng là thơ Vô Ngôn kiểu dụng ngữ của các Thiền sư. Nhà thơ trả lời để mà trả lời. Chữ không có nghĩa :” Hỏi tên rằng biển xanh dâu/ Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa”. Bùi Giáng từ chối nói tên và quê của ông. Ông trả lời bằng cách nói theo logic bình thường, nhưng dùng hình ảnh làm lạc hướng nhận thức của người nghe. Ấy là, khi anh còn xét nét tôi theo kiểu cân đong đo đếm chi li “một, hai, ba”, khi anh còn nhìn tôi bằng con mắt “diệu tưởng” và cái Tâm Sai Biệt (nghi tâm) thì anh không thể hiểu tôi. Anh hỏi tôi như thể đang kiểm tra lý lịch, soi mói, nghi ngờ. Nếu vậy, tôi chẳng có gì để nói với anh. Chỉ khi nào nhìn tôi bằng cái Tâm Bát Nhã, thì anh sẽ nhận ra tôi. Bạn đọc đã thấy lộ ra tư tưởng và mỹ học Thiền trong đoạn thơ của Bùi Giáng. Những điều như thế nằm ngoài ngôn từ, đòi hỏi một phương pháp khác để đọc tác phẩm.
Một thí dụ khác. Mời bạn đọc thử một truyện ngắn của F. Kafka
Một ngụ ngôn nho nhỏ
“Chao ôi!” Con chuột than, “mỗi ngày cái thế giới này lại trở nên bé nhỏ hơn. Ban đầu nó rộng lớn đến nỗi tôi cảm thấy e sợ, tôi cứ chạy mãi, chạy mãi và mừng làm sao khi cuối cùng tôi cũng đã thấy những bức tường hiện ra xa xa phía bên phải và bên trái, thế nhưng những bức tường dài này lại co hẹp nhanh đến độ rốt cuộc tôi đã ở trong căn phòng cuối cùng mất rồi, và ở góc phòng có một cái bẫy chuột mà tôi phải đâm đầu vào đó”. “Mày chỉ cần đổi hướng là được thôi mà”, con mèo nói rồi xơi tái con chuột.
Bạn đọc sẽ thấy phương pháp phê bình” truyền thống” bất lực trước tác phẩm này của F.Kafka. Bởi đây là một “ngụ ngôn” chứa đựng tư tưởng Hiện Sinh và được viết bằng cái nhìn Hiện Tượng Luận. Trước hết hãy hình dung ra khung cảnh sự việc. Một con chuột đang chạy trong một căn phòng rộng, sau cùng nó đến một bờ tường, dẫn đến một cái bẫy chuột. Nó ý thức rõ về cái chết không tránh được. Chưa biết phải làm gì để thoát chết thì nó nghe có tiếng nói chỉ đường :” Mày chỉ cần đổi hướng là được thôi mà”. Cả người đọc và con chuột ngộp thở, vui mừng. Nhưng ngay lúc nó nghe lời khuyên và đổi hướng, thì cũng là lúc nó phải chết. Cái chết như một tất yếu bi đát. Hiện sinh là hiện sinh quy tử. Sống là để đi về cái chết, thân phận con người là vậy, không thể khác được. Con người phải đối diện với một sự thật nghiệt ngã, tàn bạo. Điều căm phẫn là ở chỗ, kẻ chỉ đường (mèo) lại là tên sát nhân. Không có sự lưu manh, bất nhân, giả hình nào hơn thế. Về nghệ thuật, F.Kafka miêu tả không gian căn phòng qua mắt nhìn của con chuột khi nó đang chạy, khiến cho căn phòng trở nên mênh mộng và chuyển động đến chóng mặt. Truyện chỉ có hai lời thoại, lời của con chuột và lời khuyên của con mèo. Nhưng tốc độ truyện phát triển nhanh, mở rất rộng biên độ của sự tưởng tượng, giúp người đọc lần ra manh mối tư tưởng chứa đựng trong dụ ngôn. Tư tưởng Hiện Sinh được khám phá và thể hiện bằng một thái độ bi phẫn. Tác phẩm trở thành tác phẩm tư tưởng, thách đố trí tuệ người đọc.
Bạn đọc vừa cùng với tôi đọc Bùi Giáng và F.Kafka bằng chính bút pháp của tác giả. Vâng, nhất thiết cần phải lần theo bút pháp mà nhà văn xây dựng tác phẩm. Không thể đọc tác phẩm Siêu Thực bằng cách đọc của tác phẩm Hiện Thực. Bởi đọc tác phẩm Hiện Thực, người ta sẽ đối chíêu nội dung được miêu tả trong tác phẩm có giống với những gì xảy ra ở ngoài đời hay không. Và tất nhiên người đọc sẽ phản ứng với sự sáng tạo “vô lý” của nhà văn. Huy Cận viết :”Mặt trời xuống biển như hòn lửa”. Có người hỏi rằng, thưa nhà thơ, biển Việt Nam là Biển Đông, biển ở phía đông, người Việt Nam chỉ có thể nhìn thấy mặt trời mọc lên từ biển, sao nhà thơ lại viết “mặt trời xuống biển” ? Tôi nghĩ, đó chỉ là một câu hỏi đùa cho vui. Chẳng ai đọc thơ như vậy, hiện thực một cách máy móc.
Xin đọc một bài thơ Siêu Thực, bài Đàn Ghita của Lorca, thơ Thanh Thảo. Bài thơ muốn khắc họa lại hình ảnh cuộc sống, con người và cái chết bi tráng của Lorca, bằng cách dùng chính những hình ảnh Siêu Thực trong thơ Lorca : hình ảnh một chàng kỵ sĩ cô đơn "con ngựa đen, vầng trăng đỏ", với hình ảnh nàng di-gan như ngọn lửa xanh "xanh thân hình, xanh tóc".
“những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn ...
...tiếng ghi-ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi-ta ròng ròng
máu chảy ...
(Thanh Thảo- 1979- Khối vuông rubich)
Bài thơ có nhiều hình ảnh không dễ giải mã. Có một sự thật này, nhiều thầy cô giáo đã đọc và diễn giải ý nghĩa những hình ảnh ấy rất khác nhau, và không có cơ sở để xác định rằng cách hiểu này là đúng hay là sai. Vậy thì có cách nào tiếp cận thế giới nghệ thuật của bài thơ này không? Hãy nghe nhà thơ Thanh Thảo trả lời :”
Hỏi : Trong bài có nhiều hình ảnh gợi cảm: "tiếng đàn bọt nước", "vầng trăng chếnh choáng", "yên ngựa mỏi mòn"...Vì sao Thanh Thảo lại dùng những hình dung từ này? Ý nghĩa của những hình ảnh đó trong việc thể hiện chủ đề?
Thanh Thảo: Anh hỏi tôi thì tôi biết hỏi ai ? Thực ra, tôi cũng dùng những "hình dung từ" ấy một cách tình cờ thôi, hoàn toàn không cố ý. Tôi vẫn làm thơ như vậy, không cố ý, không "mài giũa ngôn từ". Những liên hệ( nếu có) giữa các tổ hợp từ ấy trong bài thơ đều gắn một cách vô thức với số phận Lorca. Những "chếnh choáng", " mỏi mòn", "bọt nước" dường như có gần xa ám ảnh cuộc đời Lorca, chúng ám cả vào thi ca của Ông(2)
Hỏi : Câu thơ “”
Giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
Xin Nhà thơ cho vài lời gợi mở để độc giả có thể hiểu thêm hai câu thơ rất đẹp trên?
Thanh Thảo: Cảm ơn anh! Nếu anh thấy đẹp, nghĩa là hai câu thơ ấy có thể đẹp. Mà đã đẹp rồi thì không thể cắt nghĩa, không nên cắt nghĩa.
Tác giả đã trả lời như thế thì thầy cô giáo dạy Văn 12 cũng “bó tay” thôi!
Thực ra Chủ nghĩa Siêu Thực khai thác những hình ảnh không có thực như trong giấc mơ, coi trọng cái phi lý, quyết liệt chống lại cái logic của lý trí. Trong giấc mơ, có những hình ảnh lạ, những hình ảnh chồng lên nhau, những hình ảnh không bao giờ có trong đời thực, nó ở trong vô thức. Khi ta tỉnh dậy, ta không thể ý thức được rõ ràng những hình ảnh ấy là gì. Logic lý trí bất lực. Vì thế nếu có những cách hiểu khác nhau hoặc không thể hiểu được theo cách hiểu thông thường thì cũng là tự nhiên. Tốt nhất, nói như Thanh Thảo :” Nếu anh thấy đẹp, nghĩa là hai câu thơ ấy có thể đẹp. Mà đã đẹp rồi thì không thể cắt nghĩa, không nên cắt nghĩa. “
Cùng khai thác những giấc mơ như chủ nghĩa Siêu Thực, nhưng phê bình Phân Tâm Học lại đi tìm cái xung lực tính dục gọi là Libido và mặc cảm Oedipe ở nhà văn, thăng hoa lên thành sáng tạo nghệ thuật. Người ta có thể phân tâm tác giả, phân tâm nhân vật và hình dung ra có một “vô thức văn bản” của tác phẩm.
Khi dùng phê bình Phân Tâm Học để nghiên cứu thơ Hoàng Cầm và tập thơ Về Kinh Bắc, Đỗ Lai Thúy phát hiện ra điều này :”
Đi tìm ẩn ngữ trong thơ Hoàng Cầm, tôi thấy thi phẩm Về Kinh Bắc giống như một giấc mơ. Tư duy thơ đứt đoạn, những hình ảnh mới lạ đứng cạnh nhau một cách ngẫu nhiên, lộn xộn tạo ra nhiều khoảng trống gây khó hiểu... Những đặc điểm trên của tập thơ cũng chính là ngữ pháp của giấc mơ... Trở lại với những bài thơ Em - Chị, có thể thấy được sơ đồ cảm hứng của tác giả: có sự ham muốn tình dục với một người lớn tuổi hơn, muốn cưới để thỏa mãn ham muốn này trong sự hợp thức hóa (Cây tam cúc), nhưng không được người nữ chấp nhận (Lá diêu bông, Quả vườn ổi) và cũng không được xã hội chấp nhận vì không hợp lẽ và nguy hiểm (Cỏ bồng thi), nên rơi vào tình trạng nước đôi, vừa yêu vừa ghét, vừa thương mến vừa hờn giận, vừa muốn quên vừa mong nhớ (Nước sông Thương). Đây cũng là cấu trúc cảm hứng của toàn bộ tập Về Kinh Bắc, rộng hơn toàn bộ sáng tác của Hoàng Cầm. Tình yêu của Hoàng Cầm với chị Vinh, một người chị lớn tuổi, không chỉ đơn giản là tình yêu trai gái thuần túy, mà còn là sự phóng chiếu của một mối phức tâm khác, mặc cảm Oedipe.”(3)
Đỗ Lai Thúy đã có những phát hiện mới lạ về thơ Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Gia Thiều, Hoàng Cầm…Tuy nhiên, phương pháp phê bình Phân Tâm Học không thể áp dụng cho mọi tác giả, mà chỉ có thể giúp khám phá con đường sáng tạo của những nhà thơ nhà văn mà thời thơ nhi họ không vượt qua được mặc cảm Oedipe, như trường hợp Hoàng Cầm ở trên. Dù sao, khi nhà phê bình nói những điều riêng tư như thế về một tác giả nào đó, sẽ có thể có những phản ứng không đồng thuận từ phía tác giả...GS Trần Đình Sử cho rằng:” Một tác phẩm văn học lớn tuyệt nhiên không phải vì nó biểu hiện được khát vọng tính dục của tác giả mà vì tầm tư tưởng xã hội và nhân văn sâu sắc của nó.”(4)
Nếu Phương Pháp phê Bình Marxist giúp tìm hiểu con người xã hội của tác giả và giá trị xã hội của văn chương thì phương pháp phê bình Phân Tâm Học giúp tìm hiểu con người vô thức của nhà văn, về sự tranh chấp giữa “cái Nó”, “cái Tôi” và “cái Siêu Tôi”, về sự thăng hoa của những ẩn ức, những mặc cảm tính dục thành nghệ thuật. Tuy nhiên, khi nhà phê bình đối diện với một tác phẩm mà không biết tác giả, vậy anh ta sẽ phải dùng phương pháp nào ? Chỉ có một cách là đối diện trực tiếp với văn bản tác phẩm, và sử dụng những phương pháp phê bình chỉ tập trung vào văn bản.
Hình Thức Luận Nga tìm kiếm tính văn chương của văn bản, đặc biệt là chức năng lạ hóa ngôn ngữ. Phương pháp của Phê Bình Mới Anh Mỹ tìm kiếm đâu là yếu tố chủ đạo trong việc hình thành ý nghĩa của một tác phẩm văn học.(5) Cấu Trúc Luận (structuralism) đưa cấu trúc văn bản vào vị trí trung tâm tạo nghĩa.(6) Giải Cấu Trúc (Deconstruction) phủ nhận sự tồn tại của một cấu trúc căn bản hằng định, bất biến. Văn bản là một hệ thống liên hệ giữa các ký hiệu ngôn ngữ, luôn luôn tồn tại một TRUNG TÂM (CENTER), được tạo nên từ ít nhất là một cặp đối lập nhị phân (binary oppositional pair). Việc đọc của một nhà phê bình Giải Cấu Trúc là một sự phản biện văn bản để làm bộc lộ những sự vô thức tiềm ẩn trong ngôn ngữ. Nhà phê bình giải cấu trúc thường tập trung vào một chi tiết nào đó của văn bản có vẻ như ngẫu nhiên, rồi dùng nó như một trục chính của toàn bộ văn bản và việc đọc sẽ được tiến hành thông qua phép so sánh và đối chiếu với trục văn bản đó…(7).
Ngày nay người ta đang nói nhiều về Hậu Hiện Đại. Việc đọc các tác phẩm Hậu Hiện Đại thật không dễ dàng , bởi thi pháp Hậu Hiện Đại phá vỡ cấu trúc truyền thống, thay vào đó là những mảnh vỡ, những ngẫu nhiên, những hoang tưởng (paranoia), những vòng luẩn quẩn (Vicious circles), sự diễu nhại (pastiche). Nhà văn hậu hiện đại gắng hết sức đập nát bốn yếu tố của tiểu thuyết là cốt chuyện, nhân vật, cảnh trí và đề tài, cốt chuyện bị nghiền nhỏ thành những biến cố và hoàn cảnh, nhân vật bị phân tán thành một bó của những khát vọng, cảnh trí chỉ mô tả sơ sài. Họ không thích sự liền mạch và kết thúc trong truyện thuyền thống, mà ưa chuộng phương thức đa kết, bằng cách ban cho một cốt chuyện rất nhiều hệ quả có thể có được. Tác giả có thể trực tiếp nói chuyện với độc giả, còn tự bước vào truyện như một nhân vật. Vài tác giả còn phá vỡ kết cấu văn bản, trong những khoảng trống, nhà văn ghép vào những trích dẫn, hình ảnh, biểu đồ, đồ thị, bản thiết kế… hoàn toàn không quan hệ gì đến câu chuyện. Có bản văn có màu khác nhau, chữ in đậm, in nghiêng, kiểu chữ Gothic, chữ viết tay, dấu ký âm, dấu nhấn giọng, và cả những thứ linh tinh những cột, những chú thích chen chúc bên cạnh những vết bẩn tách cà phê, dấu hoa thị…(8)…
Xin thử đọc
SINH TỒN- Văn Cầm Hải
Thuở nào xanh xao
mặt trăng má hồng hiện qua sông mây
cơn đẻ đã đến
kim loại nhành hoa
ngôn ngữ thơm máu thịt
rung rinh lưỡi chàng cuội
rì rào thắp sáng dương gian
trầm tư sinh khí
sữa trắng làm chiếc nôi cho tiếng khóc
bơi chập chững
nhiệm màu
thánh thót
tiếng khóc vạn kỷ
đêm rụng cánh đơm hoa
cho tay người xin thêm
mồi lửa.
Việc tiếp thu và vận dụng các lý thuyết phê bình vào thực tiễn phê bình một tác phẩm văn chương đòi hỏi nhà phê bình rất nhiều nỗ lực học tập và nghiên cứu. Đã có những thất bại.
Khi đọc một tác phẩm, trước tiên tôi tiếp cận trực tiếp với tác phẩm, không qua bất cứ một lăng kính nào, sau đó tôi lần theo ý thức sáng tạo, lý tưởng thẩm mỹ của tác giả, bởi ý thức này chi phối toàn bộ quá trình sáng tác của nhà văn. Rồi từ đó, phá vỡ cấu trúc tác phẩm, thâm nhập cho được thế giới nghệ thuật riêng của tác giả, để tìm những độc đáo, tìm “chất văn” trong ngòi bút của người viết. Sau cùng cố gắng vẽ cho được, ít ra là những nét phác thảo, chân dung phong cách nhà văn. Tất nhiên đọc tác phẩm là để thưởng thức cái hay cái đẹp của văn chương. GS Trần Đình Sử có kinh nghiệm này :“Tuy nhiên cho đến nay không có phương pháp phê bình văn học nào là vạn năng, mỗi phương pháp có phạm vi và vị trí riêng của nó”(đd). Tôi hiểu, nhà văn, nhà phê bình là người cũng đồng hành, cùng khám phá và sáng tạo.
Tháng 4.2011
________________________-
(1) http://dinhhatrieu.vnweblogs.com/post/11131/263017
(2) http://phanthanhvan.vnweblogs.com/post/8200/107738
(3) Đỗ Lai Thúy - Phê bình phân tâm học ở Việt Nam-Evan 2004
(4) Trần Đình Sử-Phê bình Phân Tâm Học và Đỗ Lai Thúy. http://tapchisonghuong.com.vn/index.php?main=newsdetail&pid=0&catid=7&ID=2905&shname=Phe-binh-phan-tam-h-c-va-Do-Lai-Thuy-1%20%20
(5) Nguyễn Hưng Quốc- Các lý thuyết phê bình văn học chính từ đầu thế kỷ 20 đến nay : http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=3778
(6) Nguyễn Minh Quân - http://hoangphongtuan.wordpress.com/2010/06/06/cac-ly-thuy%E1%BA%BFt-phe-binh-van-h%E1%BB%8Dc-c%E1%BA%A5u-truc-va-gi%E1%BA%A3i-c%E1%BA%A5u-truc-nguy%E1%BB%85n-minh-quan/
(7) Có thể đọc thêm Thụy Khuê phân tích bài Nguyệt Cầm bằng phê bình Cấu Trúc Luận bài của Nguyễn Văn Dân viết về Giải Cấu Trúc : Roland Barthes đã Giảu Cấu Trúc như thế đấy (http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=1762:roland-barthes-a-qgii-cu-trucq-nh-th-y&catid=94:ly-lun-va-phe-binh-vn-hc&Itemid=135)
(8) Đông La- http://www.chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Suy-ngam/Chu_nghia_hau_hien_dai_va_anh_huong_o_nuoc_ta/
Bùi Công Thuấn
Đối tượng của nhà phê bình là tác phẩm văn chương, nhưng làm thế nào để đọc được mã nghệ thuật của tác phẩm, quả thật không dễ dàng chút nào. Với những tác phẩm được viết bằng tư duy nghệ thuật đi trước thời đại, chắc chắn nhà phê bình chỉ có thể đứng chiêm ngưỡng tòa lâu đài kỳ lạ đó mà thôi. Đỗ Lai Thúy đã nhận xét thế này về Hoài Thanh :” Thị hiếu của Hoài Thanh chỉ dừng lại ở thẩm mỹ lãng mạn, mà chưa vượt sang được Tượng trưng và Siêu thực như chính bản thân Thơ Mới. Vì vậy, một mặt ông đưa vào Thi nhân Việt Nam rất nhiều những nhà thơ lãng mạn bàn nhì, bàn ba, mặt khác lại sập cửa trước mũi các thi tài Tượng trưng lớn như Đinh Hùng, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Xuân Sanh. Và chính ông, Hoài Thanh, cũng nhiều lần thừa nhận mình không tìm được lối vào cổng chính của thơ Bích Khê, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử”(1)
Ở Việt Nam, người ta đã quá quen với phương pháp tiểu sử của Charles-Augustin Sainte-Beuve (1804-1869) và phương pháp phê bình Marxist. Hai phương pháp này có nhiều ưu điểm, giúp soi sáng nhiều vấn đề đối với những tác phẩm được viết bằng bút pháp Hiện Thực. Nhà phê bình tìm hiểu tiểu sử tác giả, rồi dùng tiểu sử ấy lý giải và đánh giá tác phẩm. Chẳng hạn, tại sao nhân vật Từ Hải trong Đoạn Trường Tân Thanh phải chết oan, để rồi Nguyễn Du phải đắng cay ngậm ngùi !“hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn” ? Bởi vì Nguyễn Du là ông quan phong kiến, không thể cùng một lúc thờ hai vua, vừa ca ngợi Gia Tĩnh, vừa ca ngợi Từ Hải. Mặc dù Từ Hải là một nhân vật lý tưởng của Nguyễn Du, nhưng Từ Hải phải chết. Cũng vậy, tác phẩm của Nhất linh, Khái Hưng, Vũ Trọng Phụng một thời bị coi là “có vấn đề” bởi thái độ chính trị của tác giả. Phê bình tác phẩm văn chương trở thành sự kết án con người xã hội của tác giả. Tác phẩm văn chương trở thành chứng cớ kết tội. Có nhà văn đã phải sống cái kiếp nạn văn chương hết cả một đời con người.
Phương pháp phê bình Marxist tập trung xem xét mối quan hệ của văn học với hiện thực. Giá trị văn chương của tác phẩm là giá trị phản ánh hiện thực. Tác phẩm văn chương phải góp phần vào cuộc đấu tranh giai cấp của nhân dân. Hòn Đất, Người Mẹ Cầm Súng, Sống Như Anh, Rừng Xà Nu đáp ứng những yêu cầu này. Hạn chế của các phương pháp này là không thâm nhập khám phá thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Nhà phê bình không chỉ ra được giá trị thẩm mỹ của tác phẩm là gì, đâu là cá tính sáng tạo của nhà văn. Phê bình văn chương trở thành phê bình xã hội học, thái độ phê bình trở thành thái độ chính trị. Cánh Đồng Bất Tận, Trăng Nghẹn trở thành tác phẩm “có vấn đề” dưới góc nhìn của hai phương pháp phê bình “truyền thống” bởi lý do đó.
Nếu áp dụng hai phương pháp ấy để đọc thơ Lê Đạt, Hoàng Cầm, Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền thì nhà phê bình sẽ phải bỏ cuộc. Xin đọc
“Tóc trắng tầm xanh qua cầu với gió
Đùi bãi ngô non
ngo ngó sông đầy
Cây gạo già
lơi tình
lên hiệu đỏ
La lả cành
cởi thắm
để hoa bay
Em về nói làm sao với mẹ…”
(Quan họ-Lê Đạt)
Bài thơ trên phản ánh điều gì? Thể hiện cái nhìn giai cấp thế nào và góp phần thế nào vào cuộc đấu tranh giai cấp ? tất nhiên là không có câu trả lời, và nếu có cũng không quan trọng, bởi cần phải chỉ ra được những cách tân trong thơ Lê Đạt, bài thơ ấy hay ở những yếu tố nào? Tiếng nói nghệ thuật của Lê Đạt có gì đặc sắc? Lê Đạt làm thơ là tạo ra “bóng chữ”. Đọc thơ Lê Đạt là đọc “cái bóng” do con chữ gợi ra. Nghĩa của thơ không nằm trên mặt con chữ, có khi không cần hiểu nghĩa. Hãy bắt đầu thâm nhập thế giới nghệ thuật của bài thơ từ chữ “cởi thắm”. Hai chữ này tự nó không có nghĩa, nhưng nó dẫn người đọc liên tưởng đến hai bài ca dao tạo nghĩa, đó là bài ca dao về “một cô yếm thắm bỏ bùa… ” và bài Qua cầu gió bay. Lê Đạt vẽ ra một khung cảnh tình tự. Có hai người đang yêu nhau dưới gốc gạo già, rực rỡ hoa đỏ. Dòng sông nước đầy, bờ bãi ngô non. Cô gái đã cởi hết những gì phong kín hương trinh nữ, lồ lộ gọi mời. Đùi trắng như ngó sen, ánh mắt lơi tình la lả… Nhà thơ hướng ống kính camera lên cây gạo già để tả cái say tình của cô gái. Sắc hoa đỏ là tình yêu đang nồng cháy và hoa bay là sự thăng hoa của những cơn yêu không còn kềm giữ. Người con gái ấy đã để cho chàng cởi yếm thắm để nâng niu ngọc ngà, bây giờ “em về nói làm sao với mẹ”. Cởi áo cho nhau thì còn dối mẹ rằng“qua cầu gió bay”. Cởi yếm cho nhau thì dối mẹ làm sao? Hai hình ảnh thiên nhiên và con người chồng lên nhau. Chăm chú nhìn, người đọc sẽ chỉ thấy thiên nhiên, nhưng rõ ràng bài thơ là một clip yêu đương nhục thể, bên bờ sông, dưới gốc cây gạo già và bờ bãi ngô non thân quen. Cái hay của nhà thơ là diễn tả chất say đắm nhục thể của tình yêu bằng những “bóng chữ”, đủ sức gợi ra bao điều thú vị trong lòng người đọc.
Tôi vừa đọ thơ Lê Đạt với một cách đọc khác với phương pháp phê bình truyền thống. Thơ Bùi Giáng không đọc theo cách đọc “bóng chữ” của thơ Lê Đạt.
“Hỏi tên rằng biển xanh dâu
Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên rằng một, hai, ba
Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm
(Bùi Giáng- Người định đi tu)
Đoạn thơ gợi ra hình ảnh Mã Giám Sinh trong Đoạn Trường Tân Thanh:
Hỏi tên, rằng :”Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng :”Huyện Lâm Thanh cũng gần”
Quá niên trạc ngoại tự tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao
Nếu nhà phê bình cứ chúi mũi vào giải mã từ ngữ đoạn thơ Bùi Giáng theo cách đọc truyền thống thì dù có vò đầu bóp trán đến mấy cũng không thể vỡ ra nghĩa câu chữ Bùi Giáng định nói gì. Nguyễn Du tả Mã Giám Sinh bằng bút pháp ước lệ, giống như thật. Trái lại, thơ Bùi Giáng là thơ Vô Ngôn kiểu dụng ngữ của các Thiền sư. Nhà thơ trả lời để mà trả lời. Chữ không có nghĩa :” Hỏi tên rằng biển xanh dâu/ Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa”. Bùi Giáng từ chối nói tên và quê của ông. Ông trả lời bằng cách nói theo logic bình thường, nhưng dùng hình ảnh làm lạc hướng nhận thức của người nghe. Ấy là, khi anh còn xét nét tôi theo kiểu cân đong đo đếm chi li “một, hai, ba”, khi anh còn nhìn tôi bằng con mắt “diệu tưởng” và cái Tâm Sai Biệt (nghi tâm) thì anh không thể hiểu tôi. Anh hỏi tôi như thể đang kiểm tra lý lịch, soi mói, nghi ngờ. Nếu vậy, tôi chẳng có gì để nói với anh. Chỉ khi nào nhìn tôi bằng cái Tâm Bát Nhã, thì anh sẽ nhận ra tôi. Bạn đọc đã thấy lộ ra tư tưởng và mỹ học Thiền trong đoạn thơ của Bùi Giáng. Những điều như thế nằm ngoài ngôn từ, đòi hỏi một phương pháp khác để đọc tác phẩm.
Một thí dụ khác. Mời bạn đọc thử một truyện ngắn của F. Kafka
Một ngụ ngôn nho nhỏ
“Chao ôi!” Con chuột than, “mỗi ngày cái thế giới này lại trở nên bé nhỏ hơn. Ban đầu nó rộng lớn đến nỗi tôi cảm thấy e sợ, tôi cứ chạy mãi, chạy mãi và mừng làm sao khi cuối cùng tôi cũng đã thấy những bức tường hiện ra xa xa phía bên phải và bên trái, thế nhưng những bức tường dài này lại co hẹp nhanh đến độ rốt cuộc tôi đã ở trong căn phòng cuối cùng mất rồi, và ở góc phòng có một cái bẫy chuột mà tôi phải đâm đầu vào đó”. “Mày chỉ cần đổi hướng là được thôi mà”, con mèo nói rồi xơi tái con chuột.
Bạn đọc sẽ thấy phương pháp phê bình” truyền thống” bất lực trước tác phẩm này của F.Kafka. Bởi đây là một “ngụ ngôn” chứa đựng tư tưởng Hiện Sinh và được viết bằng cái nhìn Hiện Tượng Luận. Trước hết hãy hình dung ra khung cảnh sự việc. Một con chuột đang chạy trong một căn phòng rộng, sau cùng nó đến một bờ tường, dẫn đến một cái bẫy chuột. Nó ý thức rõ về cái chết không tránh được. Chưa biết phải làm gì để thoát chết thì nó nghe có tiếng nói chỉ đường :” Mày chỉ cần đổi hướng là được thôi mà”. Cả người đọc và con chuột ngộp thở, vui mừng. Nhưng ngay lúc nó nghe lời khuyên và đổi hướng, thì cũng là lúc nó phải chết. Cái chết như một tất yếu bi đát. Hiện sinh là hiện sinh quy tử. Sống là để đi về cái chết, thân phận con người là vậy, không thể khác được. Con người phải đối diện với một sự thật nghiệt ngã, tàn bạo. Điều căm phẫn là ở chỗ, kẻ chỉ đường (mèo) lại là tên sát nhân. Không có sự lưu manh, bất nhân, giả hình nào hơn thế. Về nghệ thuật, F.Kafka miêu tả không gian căn phòng qua mắt nhìn của con chuột khi nó đang chạy, khiến cho căn phòng trở nên mênh mộng và chuyển động đến chóng mặt. Truyện chỉ có hai lời thoại, lời của con chuột và lời khuyên của con mèo. Nhưng tốc độ truyện phát triển nhanh, mở rất rộng biên độ của sự tưởng tượng, giúp người đọc lần ra manh mối tư tưởng chứa đựng trong dụ ngôn. Tư tưởng Hiện Sinh được khám phá và thể hiện bằng một thái độ bi phẫn. Tác phẩm trở thành tác phẩm tư tưởng, thách đố trí tuệ người đọc.
Bạn đọc vừa cùng với tôi đọc Bùi Giáng và F.Kafka bằng chính bút pháp của tác giả. Vâng, nhất thiết cần phải lần theo bút pháp mà nhà văn xây dựng tác phẩm. Không thể đọc tác phẩm Siêu Thực bằng cách đọc của tác phẩm Hiện Thực. Bởi đọc tác phẩm Hiện Thực, người ta sẽ đối chíêu nội dung được miêu tả trong tác phẩm có giống với những gì xảy ra ở ngoài đời hay không. Và tất nhiên người đọc sẽ phản ứng với sự sáng tạo “vô lý” của nhà văn. Huy Cận viết :”Mặt trời xuống biển như hòn lửa”. Có người hỏi rằng, thưa nhà thơ, biển Việt Nam là Biển Đông, biển ở phía đông, người Việt Nam chỉ có thể nhìn thấy mặt trời mọc lên từ biển, sao nhà thơ lại viết “mặt trời xuống biển” ? Tôi nghĩ, đó chỉ là một câu hỏi đùa cho vui. Chẳng ai đọc thơ như vậy, hiện thực một cách máy móc.
Xin đọc một bài thơ Siêu Thực, bài Đàn Ghita của Lorca, thơ Thanh Thảo. Bài thơ muốn khắc họa lại hình ảnh cuộc sống, con người và cái chết bi tráng của Lorca, bằng cách dùng chính những hình ảnh Siêu Thực trong thơ Lorca : hình ảnh một chàng kỵ sĩ cô đơn "con ngựa đen, vầng trăng đỏ", với hình ảnh nàng di-gan như ngọn lửa xanh "xanh thân hình, xanh tóc".
“những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn ...
...tiếng ghi-ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi-ta ròng ròng
máu chảy ...
(Thanh Thảo- 1979- Khối vuông rubich)
Bài thơ có nhiều hình ảnh không dễ giải mã. Có một sự thật này, nhiều thầy cô giáo đã đọc và diễn giải ý nghĩa những hình ảnh ấy rất khác nhau, và không có cơ sở để xác định rằng cách hiểu này là đúng hay là sai. Vậy thì có cách nào tiếp cận thế giới nghệ thuật của bài thơ này không? Hãy nghe nhà thơ Thanh Thảo trả lời :”
Hỏi : Trong bài có nhiều hình ảnh gợi cảm: "tiếng đàn bọt nước", "vầng trăng chếnh choáng", "yên ngựa mỏi mòn"...Vì sao Thanh Thảo lại dùng những hình dung từ này? Ý nghĩa của những hình ảnh đó trong việc thể hiện chủ đề?
Thanh Thảo: Anh hỏi tôi thì tôi biết hỏi ai ? Thực ra, tôi cũng dùng những "hình dung từ" ấy một cách tình cờ thôi, hoàn toàn không cố ý. Tôi vẫn làm thơ như vậy, không cố ý, không "mài giũa ngôn từ". Những liên hệ( nếu có) giữa các tổ hợp từ ấy trong bài thơ đều gắn một cách vô thức với số phận Lorca. Những "chếnh choáng", " mỏi mòn", "bọt nước" dường như có gần xa ám ảnh cuộc đời Lorca, chúng ám cả vào thi ca của Ông(2)
Hỏi : Câu thơ “”
Giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
Xin Nhà thơ cho vài lời gợi mở để độc giả có thể hiểu thêm hai câu thơ rất đẹp trên?
Thanh Thảo: Cảm ơn anh! Nếu anh thấy đẹp, nghĩa là hai câu thơ ấy có thể đẹp. Mà đã đẹp rồi thì không thể cắt nghĩa, không nên cắt nghĩa.
Tác giả đã trả lời như thế thì thầy cô giáo dạy Văn 12 cũng “bó tay” thôi!
Thực ra Chủ nghĩa Siêu Thực khai thác những hình ảnh không có thực như trong giấc mơ, coi trọng cái phi lý, quyết liệt chống lại cái logic của lý trí. Trong giấc mơ, có những hình ảnh lạ, những hình ảnh chồng lên nhau, những hình ảnh không bao giờ có trong đời thực, nó ở trong vô thức. Khi ta tỉnh dậy, ta không thể ý thức được rõ ràng những hình ảnh ấy là gì. Logic lý trí bất lực. Vì thế nếu có những cách hiểu khác nhau hoặc không thể hiểu được theo cách hiểu thông thường thì cũng là tự nhiên. Tốt nhất, nói như Thanh Thảo :” Nếu anh thấy đẹp, nghĩa là hai câu thơ ấy có thể đẹp. Mà đã đẹp rồi thì không thể cắt nghĩa, không nên cắt nghĩa. “
Cùng khai thác những giấc mơ như chủ nghĩa Siêu Thực, nhưng phê bình Phân Tâm Học lại đi tìm cái xung lực tính dục gọi là Libido và mặc cảm Oedipe ở nhà văn, thăng hoa lên thành sáng tạo nghệ thuật. Người ta có thể phân tâm tác giả, phân tâm nhân vật và hình dung ra có một “vô thức văn bản” của tác phẩm.
Khi dùng phê bình Phân Tâm Học để nghiên cứu thơ Hoàng Cầm và tập thơ Về Kinh Bắc, Đỗ Lai Thúy phát hiện ra điều này :”
Đi tìm ẩn ngữ trong thơ Hoàng Cầm, tôi thấy thi phẩm Về Kinh Bắc giống như một giấc mơ. Tư duy thơ đứt đoạn, những hình ảnh mới lạ đứng cạnh nhau một cách ngẫu nhiên, lộn xộn tạo ra nhiều khoảng trống gây khó hiểu... Những đặc điểm trên của tập thơ cũng chính là ngữ pháp của giấc mơ... Trở lại với những bài thơ Em - Chị, có thể thấy được sơ đồ cảm hứng của tác giả: có sự ham muốn tình dục với một người lớn tuổi hơn, muốn cưới để thỏa mãn ham muốn này trong sự hợp thức hóa (Cây tam cúc), nhưng không được người nữ chấp nhận (Lá diêu bông, Quả vườn ổi) và cũng không được xã hội chấp nhận vì không hợp lẽ và nguy hiểm (Cỏ bồng thi), nên rơi vào tình trạng nước đôi, vừa yêu vừa ghét, vừa thương mến vừa hờn giận, vừa muốn quên vừa mong nhớ (Nước sông Thương). Đây cũng là cấu trúc cảm hứng của toàn bộ tập Về Kinh Bắc, rộng hơn toàn bộ sáng tác của Hoàng Cầm. Tình yêu của Hoàng Cầm với chị Vinh, một người chị lớn tuổi, không chỉ đơn giản là tình yêu trai gái thuần túy, mà còn là sự phóng chiếu của một mối phức tâm khác, mặc cảm Oedipe.”(3)
Đỗ Lai Thúy đã có những phát hiện mới lạ về thơ Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Gia Thiều, Hoàng Cầm…Tuy nhiên, phương pháp phê bình Phân Tâm Học không thể áp dụng cho mọi tác giả, mà chỉ có thể giúp khám phá con đường sáng tạo của những nhà thơ nhà văn mà thời thơ nhi họ không vượt qua được mặc cảm Oedipe, như trường hợp Hoàng Cầm ở trên. Dù sao, khi nhà phê bình nói những điều riêng tư như thế về một tác giả nào đó, sẽ có thể có những phản ứng không đồng thuận từ phía tác giả...GS Trần Đình Sử cho rằng:” Một tác phẩm văn học lớn tuyệt nhiên không phải vì nó biểu hiện được khát vọng tính dục của tác giả mà vì tầm tư tưởng xã hội và nhân văn sâu sắc của nó.”(4)
Nếu Phương Pháp phê Bình Marxist giúp tìm hiểu con người xã hội của tác giả và giá trị xã hội của văn chương thì phương pháp phê bình Phân Tâm Học giúp tìm hiểu con người vô thức của nhà văn, về sự tranh chấp giữa “cái Nó”, “cái Tôi” và “cái Siêu Tôi”, về sự thăng hoa của những ẩn ức, những mặc cảm tính dục thành nghệ thuật. Tuy nhiên, khi nhà phê bình đối diện với một tác phẩm mà không biết tác giả, vậy anh ta sẽ phải dùng phương pháp nào ? Chỉ có một cách là đối diện trực tiếp với văn bản tác phẩm, và sử dụng những phương pháp phê bình chỉ tập trung vào văn bản.
Hình Thức Luận Nga tìm kiếm tính văn chương của văn bản, đặc biệt là chức năng lạ hóa ngôn ngữ. Phương pháp của Phê Bình Mới Anh Mỹ tìm kiếm đâu là yếu tố chủ đạo trong việc hình thành ý nghĩa của một tác phẩm văn học.(5) Cấu Trúc Luận (structuralism) đưa cấu trúc văn bản vào vị trí trung tâm tạo nghĩa.(6) Giải Cấu Trúc (Deconstruction) phủ nhận sự tồn tại của một cấu trúc căn bản hằng định, bất biến. Văn bản là một hệ thống liên hệ giữa các ký hiệu ngôn ngữ, luôn luôn tồn tại một TRUNG TÂM (CENTER), được tạo nên từ ít nhất là một cặp đối lập nhị phân (binary oppositional pair). Việc đọc của một nhà phê bình Giải Cấu Trúc là một sự phản biện văn bản để làm bộc lộ những sự vô thức tiềm ẩn trong ngôn ngữ. Nhà phê bình giải cấu trúc thường tập trung vào một chi tiết nào đó của văn bản có vẻ như ngẫu nhiên, rồi dùng nó như một trục chính của toàn bộ văn bản và việc đọc sẽ được tiến hành thông qua phép so sánh và đối chiếu với trục văn bản đó…(7).
Ngày nay người ta đang nói nhiều về Hậu Hiện Đại. Việc đọc các tác phẩm Hậu Hiện Đại thật không dễ dàng , bởi thi pháp Hậu Hiện Đại phá vỡ cấu trúc truyền thống, thay vào đó là những mảnh vỡ, những ngẫu nhiên, những hoang tưởng (paranoia), những vòng luẩn quẩn (Vicious circles), sự diễu nhại (pastiche). Nhà văn hậu hiện đại gắng hết sức đập nát bốn yếu tố của tiểu thuyết là cốt chuyện, nhân vật, cảnh trí và đề tài, cốt chuyện bị nghiền nhỏ thành những biến cố và hoàn cảnh, nhân vật bị phân tán thành một bó của những khát vọng, cảnh trí chỉ mô tả sơ sài. Họ không thích sự liền mạch và kết thúc trong truyện thuyền thống, mà ưa chuộng phương thức đa kết, bằng cách ban cho một cốt chuyện rất nhiều hệ quả có thể có được. Tác giả có thể trực tiếp nói chuyện với độc giả, còn tự bước vào truyện như một nhân vật. Vài tác giả còn phá vỡ kết cấu văn bản, trong những khoảng trống, nhà văn ghép vào những trích dẫn, hình ảnh, biểu đồ, đồ thị, bản thiết kế… hoàn toàn không quan hệ gì đến câu chuyện. Có bản văn có màu khác nhau, chữ in đậm, in nghiêng, kiểu chữ Gothic, chữ viết tay, dấu ký âm, dấu nhấn giọng, và cả những thứ linh tinh những cột, những chú thích chen chúc bên cạnh những vết bẩn tách cà phê, dấu hoa thị…(8)…
Xin thử đọc
SINH TỒN- Văn Cầm Hải
Thuở nào xanh xao
mặt trăng má hồng hiện qua sông mây
cơn đẻ đã đến
kim loại nhành hoa
ngôn ngữ thơm máu thịt
rung rinh lưỡi chàng cuội
rì rào thắp sáng dương gian
trầm tư sinh khí
sữa trắng làm chiếc nôi cho tiếng khóc
bơi chập chững
nhiệm màu
thánh thót
tiếng khóc vạn kỷ
đêm rụng cánh đơm hoa
cho tay người xin thêm
mồi lửa.
Việc tiếp thu và vận dụng các lý thuyết phê bình vào thực tiễn phê bình một tác phẩm văn chương đòi hỏi nhà phê bình rất nhiều nỗ lực học tập và nghiên cứu. Đã có những thất bại.
Khi đọc một tác phẩm, trước tiên tôi tiếp cận trực tiếp với tác phẩm, không qua bất cứ một lăng kính nào, sau đó tôi lần theo ý thức sáng tạo, lý tưởng thẩm mỹ của tác giả, bởi ý thức này chi phối toàn bộ quá trình sáng tác của nhà văn. Rồi từ đó, phá vỡ cấu trúc tác phẩm, thâm nhập cho được thế giới nghệ thuật riêng của tác giả, để tìm những độc đáo, tìm “chất văn” trong ngòi bút của người viết. Sau cùng cố gắng vẽ cho được, ít ra là những nét phác thảo, chân dung phong cách nhà văn. Tất nhiên đọc tác phẩm là để thưởng thức cái hay cái đẹp của văn chương. GS Trần Đình Sử có kinh nghiệm này :“Tuy nhiên cho đến nay không có phương pháp phê bình văn học nào là vạn năng, mỗi phương pháp có phạm vi và vị trí riêng của nó”(đd). Tôi hiểu, nhà văn, nhà phê bình là người cũng đồng hành, cùng khám phá và sáng tạo.
Tháng 4.2011
________________________-
(1) http://dinhhatrieu.vnweblogs.com/post/11131/263017
(2) http://phanthanhvan.vnweblogs.com/post/8200/107738
(3) Đỗ Lai Thúy - Phê bình phân tâm học ở Việt Nam-Evan 2004
(4) Trần Đình Sử-Phê bình Phân Tâm Học và Đỗ Lai Thúy. http://tapchisonghuong.com.vn/index.php?main=newsdetail&pid=0&catid=7&ID=2905&shname=Phe-binh-phan-tam-h-c-va-Do-Lai-Thuy-1%20%20
(5) Nguyễn Hưng Quốc- Các lý thuyết phê bình văn học chính từ đầu thế kỷ 20 đến nay : http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=3778
(6) Nguyễn Minh Quân - http://hoangphongtuan.wordpress.com/2010/06/06/cac-ly-thuy%E1%BA%BFt-phe-binh-van-h%E1%BB%8Dc-c%E1%BA%A5u-truc-va-gi%E1%BA%A3i-c%E1%BA%A5u-truc-nguy%E1%BB%85n-minh-quan/
(7) Có thể đọc thêm Thụy Khuê phân tích bài Nguyệt Cầm bằng phê bình Cấu Trúc Luận bài của Nguyễn Văn Dân viết về Giải Cấu Trúc : Roland Barthes đã Giảu Cấu Trúc như thế đấy (http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=1762:roland-barthes-a-qgii-cu-trucq-nh-th-y&catid=94:ly-lun-va-phe-binh-vn-hc&Itemid=135)
(8) Đông La- http://www.chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Suy-ngam/Chu_nghia_hau_hien_dai_va_anh_huong_o_nuoc_ta/
Thứ Ba, 5 tháng 4, 2011
THÂN PHẬN NGHỆ SĨ
THÂN PHẬN NGHỆ SĨ
Bùi Công Thuấn
Năm nay kỷ niệm 10 năm ngày mất của Trịnh Công Sơn, người ta nói về ông khá ồn ào. Vẫn những tranh cãi về thái độ chính trị của TCS, đặc biệt là lời phát biểu của Trịnh ngày 30.04.1975 trên đài phát thanh Sàigòn. TCS là ai?
“Tôi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất vui mừng và cảm động gặp và nói chuyện với tất cả các anh em văn nghệ sĩ ở miền nam Việt Nam này. Hôm nay là cái ngày mơ ước của tất cả chúng ta, đó là ngày mà chúng ta giải phóng hoàn toàn tất cả đất nước Việt Nam này.
Cũng như những điều mơ ước của các bạn bấy lâu là độc lập, tự do và thống nhất thì hôm nay chúng ta đã đạt được tất cả những kết quả đó.
Tôi yêu cầu các văn nghệ sĩ cách mạng miền nam Việt Nam (không rõ) hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam. Những kẻ đã ra đi chúng ta xem như là đã phản bội đất nước.
Chúng ta là người Việt Nam. Đất nước này đất nước Việt Nam. Chúng ta ở trên đất nước chúng ta.
...Xin chấm dứt. Và tôi xin hát một bài. Hiện tại ở trên đài thì không có đàn ghi-ta. Tôi xin hát lại cái bài “Nối vòng tay lớn”.(1)
Báo Thanh Niên tung lên loạt bài về những lá thư tình của Trịnh. Nhiều chương trình văn nghệ được thực hiện, nhiều ca sĩ có album hát nhạc Trịnh...Không biết TCS có vui không khi ông đã không còn ở cõi người? Tôi tin rằng, sau những thăng trầm, TCS hiểu rất rõ cuộc đời này, bởi vì Trịnh coi cõi đời này là cõi tạm, là ở trọ và muốn trở về, “thôi về đi, đường trần đâu có gì”.
Hoàng Xuân Sơn nói rằng, vào những năm 1980, TCS uống nhiều rượu :” TCS lúc này uống rượu nhiều, uống tợn, và trở nên nghiện rượu hạng nặng . Sáng sớm bảnh mắt chàng đã súc miệng bằng vodka sec. Và TCS cũng vẫn rít thuốc lá như điên, liều lượng có phần tăng thêm (người vẫn trung thành với Bastos xanh, cùng “gu” Gaulois/Gitane của Pháp). Rượu/ thuốc liên miên trường kỳ chắc hẳn đã gây nên tình trạng suy nhược trầm trọng cho đến cuối cuộc đời của anh (2)
Hãy trả lại cốt cách con người nghệ sĩ cho Trịnh. Trịnh là một cá thể trong một hoàn cảnh xã hội cụ thể . Trịnh có thể đúng, có thể sai, tùy theo góc nhìn của mỗi người, giống như đương thời người ta đã nhìn và đánh giá Nguyễn Du. Giá trị của người nghệ sĩ là ở chỗ TCS có để lại cho đời những tác phẩm nghệ thuật, làm giàu văn hóa nghệ thuật dân tộc không ? tác phẩm của ông có được công chúng yêu mến hay không. Và Trịnh có nói được tiếng nói của con người thời đại mình không (Tôi hiểu nghệ sĩ là người thương vay khóc mướn). Điều này thì đã rõ, nhạc Trịnh vẫn sống và hình như ngày càng sinh hóa mạnh mẽ hơn cả khi Trịnh còn sống.
Nhạc Trịnh đặc biệt hay khi được trình tấu bằng saxophone trong tiết tấu ngẫu hứng của Jazz. Các ca sĩ trẻ muốn khẳng định giọng ca của mình đều thử sức với nhạc Trịnh. Tuy nhiên, nếu nghe liên tiếp nhạc Trịnh trong một giờ đồng hồ, bạn sẽ cảm thấy đầu mình u ám và cằn cỗi, bởi những tư tưởng của Trịnh xám xịt, bế tắc “tiến thoái lưỡng nan” mặc dù Trịnh đã dùng một liều an thần rằng “tôi ơi đừng tuyệt vọng”.
Nhạc Trịnh đặc sắc ở giai điệu thuần Việt, không lai căng như nhạc trẻ bây giờ, cũng không “cải lương” như nhạc sến trước 1975 ở Sàigon. Những giai điệu đẹp kết hợp với ca từ đặc sắc, tạo nên thế giới nghệ thuật riêng của Trịnh. Trịnh đóng góp cho nghệ thuật dân tộc ở hai giá trị đặc sắc ấy : giai điệu thuần Việt và ca từ giàu chất thơ, thơ Ấn Tượng và Siêu Thực.
Xin nghe lại Diễm Xưa. Nhạc Trịnh gợi ra một không gian phi hiện thực, ta đã gặp đâu đó trong vô thức hay trong tiềm thức. Thế nhưng, giai điệu và lời ca lại chạm được vào sâu thẳm hồn ta, làm hiện ra những điều thật mơ hồ, nhưng cũng rất cụ thể. Đó là nỗi đau, đó là tình yêu thiên thần làm ta mê đắm, làm ta đi theo em mãi. Không gian mưa bỗng trở nên đẹp quyến rũ. Nhạc Trịnh dẫn ta đi mãi vào cõi riêng và mãi tới thiên thu. Không phải lạc vào cõi thần tiên hay cõi Thiền , mà là cõi người “hằn lên nỗi đau” nhưng cũng là cõi mà “ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”. Tiếng Việt trở nên đẹp kỳ diệu. Trịnh làm ta sững sờ về vẻ đẹp vừa mới lạ vừa cổ kính của tiếng Việt. Từ Văn Cao, đến Phạm Duy, Đoàn Chuẩn-Từ Linh và TCS, tiếng Việt ngày càng trở nên tinh tế, phong phú và có khả năng phi thường để diễn tả những tâm tư tình cảm con người Việt Nam.
Diễm Xưa
Mưa vẫn bay bay trên tầng tháp cổ
Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao
Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ
Đường dài hun hút cho mắt thêm sâu
Mưa vẫn hay mưa trên hàng lá nhỏ
Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua
Trên bước chân em âm thầm lá đổ
Chợt hồn xanh buốt cho mình xót xa
Chiều nay còn mưa sao em không lại
Nhớ mãi trong cơn đau vùi
Làm sao có nhau hằn lên nỗi đau
Bước chân em xin về mau
Mưa vẫn hay mưa cho đời biến động
Làm sao em biết bia đá không đau
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau
Mưa vẫn hay mưa cho đời biến động
Làm sao em nhớ những vết chim di
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Để người phiêu lãng quên mình lãng du
Rồi đây, người ta sẽ còn nói đến nhạc Trịnh như nói đến truyện Kiều của Nguyễn Du. Không nên bận tâm đến con người xã hội của Trịnh , bởi tác giả đã chết, Roland Barthes đã nói vậy.
_______________________
(1) http://damau.org/archives/19337
(2) http://damau.org/archives/19354
Bùi Công Thuấn
Năm nay kỷ niệm 10 năm ngày mất của Trịnh Công Sơn, người ta nói về ông khá ồn ào. Vẫn những tranh cãi về thái độ chính trị của TCS, đặc biệt là lời phát biểu của Trịnh ngày 30.04.1975 trên đài phát thanh Sàigòn. TCS là ai?
“Tôi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất vui mừng và cảm động gặp và nói chuyện với tất cả các anh em văn nghệ sĩ ở miền nam Việt Nam này. Hôm nay là cái ngày mơ ước của tất cả chúng ta, đó là ngày mà chúng ta giải phóng hoàn toàn tất cả đất nước Việt Nam này.
Cũng như những điều mơ ước của các bạn bấy lâu là độc lập, tự do và thống nhất thì hôm nay chúng ta đã đạt được tất cả những kết quả đó.
Tôi yêu cầu các văn nghệ sĩ cách mạng miền nam Việt Nam (không rõ) hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam. Những kẻ đã ra đi chúng ta xem như là đã phản bội đất nước.
Chúng ta là người Việt Nam. Đất nước này đất nước Việt Nam. Chúng ta ở trên đất nước chúng ta.
...Xin chấm dứt. Và tôi xin hát một bài. Hiện tại ở trên đài thì không có đàn ghi-ta. Tôi xin hát lại cái bài “Nối vòng tay lớn”.(1)
Báo Thanh Niên tung lên loạt bài về những lá thư tình của Trịnh. Nhiều chương trình văn nghệ được thực hiện, nhiều ca sĩ có album hát nhạc Trịnh...Không biết TCS có vui không khi ông đã không còn ở cõi người? Tôi tin rằng, sau những thăng trầm, TCS hiểu rất rõ cuộc đời này, bởi vì Trịnh coi cõi đời này là cõi tạm, là ở trọ và muốn trở về, “thôi về đi, đường trần đâu có gì”.
Hoàng Xuân Sơn nói rằng, vào những năm 1980, TCS uống nhiều rượu :” TCS lúc này uống rượu nhiều, uống tợn, và trở nên nghiện rượu hạng nặng . Sáng sớm bảnh mắt chàng đã súc miệng bằng vodka sec. Và TCS cũng vẫn rít thuốc lá như điên, liều lượng có phần tăng thêm (người vẫn trung thành với Bastos xanh, cùng “gu” Gaulois/Gitane của Pháp). Rượu/ thuốc liên miên trường kỳ chắc hẳn đã gây nên tình trạng suy nhược trầm trọng cho đến cuối cuộc đời của anh (2)
Hãy trả lại cốt cách con người nghệ sĩ cho Trịnh. Trịnh là một cá thể trong một hoàn cảnh xã hội cụ thể . Trịnh có thể đúng, có thể sai, tùy theo góc nhìn của mỗi người, giống như đương thời người ta đã nhìn và đánh giá Nguyễn Du. Giá trị của người nghệ sĩ là ở chỗ TCS có để lại cho đời những tác phẩm nghệ thuật, làm giàu văn hóa nghệ thuật dân tộc không ? tác phẩm của ông có được công chúng yêu mến hay không. Và Trịnh có nói được tiếng nói của con người thời đại mình không (Tôi hiểu nghệ sĩ là người thương vay khóc mướn). Điều này thì đã rõ, nhạc Trịnh vẫn sống và hình như ngày càng sinh hóa mạnh mẽ hơn cả khi Trịnh còn sống.
Nhạc Trịnh đặc biệt hay khi được trình tấu bằng saxophone trong tiết tấu ngẫu hứng của Jazz. Các ca sĩ trẻ muốn khẳng định giọng ca của mình đều thử sức với nhạc Trịnh. Tuy nhiên, nếu nghe liên tiếp nhạc Trịnh trong một giờ đồng hồ, bạn sẽ cảm thấy đầu mình u ám và cằn cỗi, bởi những tư tưởng của Trịnh xám xịt, bế tắc “tiến thoái lưỡng nan” mặc dù Trịnh đã dùng một liều an thần rằng “tôi ơi đừng tuyệt vọng”.
Nhạc Trịnh đặc sắc ở giai điệu thuần Việt, không lai căng như nhạc trẻ bây giờ, cũng không “cải lương” như nhạc sến trước 1975 ở Sàigon. Những giai điệu đẹp kết hợp với ca từ đặc sắc, tạo nên thế giới nghệ thuật riêng của Trịnh. Trịnh đóng góp cho nghệ thuật dân tộc ở hai giá trị đặc sắc ấy : giai điệu thuần Việt và ca từ giàu chất thơ, thơ Ấn Tượng và Siêu Thực.
Xin nghe lại Diễm Xưa. Nhạc Trịnh gợi ra một không gian phi hiện thực, ta đã gặp đâu đó trong vô thức hay trong tiềm thức. Thế nhưng, giai điệu và lời ca lại chạm được vào sâu thẳm hồn ta, làm hiện ra những điều thật mơ hồ, nhưng cũng rất cụ thể. Đó là nỗi đau, đó là tình yêu thiên thần làm ta mê đắm, làm ta đi theo em mãi. Không gian mưa bỗng trở nên đẹp quyến rũ. Nhạc Trịnh dẫn ta đi mãi vào cõi riêng và mãi tới thiên thu. Không phải lạc vào cõi thần tiên hay cõi Thiền , mà là cõi người “hằn lên nỗi đau” nhưng cũng là cõi mà “ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”. Tiếng Việt trở nên đẹp kỳ diệu. Trịnh làm ta sững sờ về vẻ đẹp vừa mới lạ vừa cổ kính của tiếng Việt. Từ Văn Cao, đến Phạm Duy, Đoàn Chuẩn-Từ Linh và TCS, tiếng Việt ngày càng trở nên tinh tế, phong phú và có khả năng phi thường để diễn tả những tâm tư tình cảm con người Việt Nam.
Diễm Xưa
Mưa vẫn bay bay trên tầng tháp cổ
Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao
Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ
Đường dài hun hút cho mắt thêm sâu
Mưa vẫn hay mưa trên hàng lá nhỏ
Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua
Trên bước chân em âm thầm lá đổ
Chợt hồn xanh buốt cho mình xót xa
Chiều nay còn mưa sao em không lại
Nhớ mãi trong cơn đau vùi
Làm sao có nhau hằn lên nỗi đau
Bước chân em xin về mau
Mưa vẫn hay mưa cho đời biến động
Làm sao em biết bia đá không đau
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau
Mưa vẫn hay mưa cho đời biến động
Làm sao em nhớ những vết chim di
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Để người phiêu lãng quên mình lãng du
Rồi đây, người ta sẽ còn nói đến nhạc Trịnh như nói đến truyện Kiều của Nguyễn Du. Không nên bận tâm đến con người xã hội của Trịnh , bởi tác giả đã chết, Roland Barthes đã nói vậy.
_______________________
(1) http://damau.org/archives/19337
(2) http://damau.org/archives/19354
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)