PHẠM CÔNG THIỆN,
người muốn nhảy qua cái bóng của mình
Bùi Công Thuấn
Ngày 04 tháng 03 năm 2011 Gíao sư Phạm Công Thiện qua đời. Cáo Bạch của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Hoa Kỳ thông báo rằng :
Giáo sư Phạm Công Thiện, pháp danh Nguyên Tánh, sinh ngày 01 tháng 06 năm Tân Tỵ, 1941, tại Mỹ Tho Việt nam
- Tiến sĩ triết học tại đại học Sorbone , Pháp.
- Nguyên Giáo sư Triết Học tại Đại Học Toulouse, Pháp.
- Nguyên Khoa Trưởng Phân Khoa Văn Học và Khoa Học Nhân Văn tại Đại Học Vạn Hạnh Sài gòn ; Giám đốc Soạn Thảo Chương Trình Giảng Dạy cho tất cả các Phân Khoa của Viện Đại Học Vạn Hạnh từ năm 1966-1970
- Nguyên Chủ Biên Tạp Chí Tư Tưởng của Viện Đại Học Vạn Hạnh Sàigon
- Nguyên Giáo Sư Phật Học tại các Học Viện, Cao Đẳng Phật Học tại Hoa Kỳ
- Nguyên Tổng Vụ Trưởng Tổng Hội Văn Hóa Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ, Văn phòng 2 Viện Hóa Đạo.
Cáo Bạch cũng nói đến “công đức lớn lao mà cố giáo sư Phạm Công Thiện đã đóng góp cho nền văn hóa giáo dục và hoằng pháp Phật Giáo Việt Nam trong cũng như ngoài nước suốt nửa thế kỷ qua”(1)
1.Hiện tượng Phạm Công Thiện những năm 1960-1970
Những ai từng là sinh viên ở miền Nam những năm 1960-1970 thì không thể không biết và không đọc Phạm Công Thiện. Hiện tượng PCT trở thành mốt thời thượng của người trẻ thời bấy giờ. Những cuốn sách Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ và Triết Học, Hố Thẳm Tư tưởng, Im Lặng Hố Thẳm là sửng sốt người trẻ. Họ choáng vì khối lượng sách văn học và triết học thế giới mà PCT đọc và trích dẫn ghi chú tham khảo sau tác phẩm. Họ ngưỡng phục vì họ mù tịt trước những ngoại ngữ như tiếng Đức, tiếng Hán, tiếng Anh, tiếng Pháp, Tiếng Phạn, tiếng Hy Lạp mà PCT tỏ ra thông tuệ khi ông dẫn ra trong tác phẩm. Họ coi PCT là thần tượng vì họ có một “người hùng” thông kim bác cổ, người vứt tất cả thơ ca, tư tưởng nhân loại vào sọt rác, và đặc biệt là “người hùng” ấy đánh bại luận văn tiến sĩ của Giáo Sư Nguyễn Văn Trung lúc bấy giờ. Bởi sau bài viết của PCT, GS Nguyễn Văn Trung không hề lên tiếng. Người trẻ còn coi PCT như một mẫu người thời đại, vượt hơn tất cả, cao ngạo, quyết liệt, lật đổ, và tự do.
Do đâu có hiện tượng ấy ? Xã hội miền Nam những năm 1970 ngày càng thối nát và hỗn loạn. Chiến tranh trở nên khốc liệt và tuyệt vọng, nhất là sau biến cố Mậu Thân 1968. Người trẻ Sàigon không có lối nào để thoát. Tiếng hát phản chiến của Trịnh Công Sơn ru ngủ họ trong những quán cà phê. Hàng ngày họ chứng kiến nhiều quan tài đưa xác bạn bè từ chiến trường về. Họ cần có người dám “vượt” lên tất cả. Người ấy là PCT.
Thiện nói với Nh. Tay Ngàn :” tao vốn là một thằng kiêu ngạo và tao chẳng từng nói với mày rằng tao có thể làm bất cứ những gì mà con người đã có thể hay sẽ có thể làm được trên đời này? Shakespeare hay Goethe, Dante hay Heidegger, tao coi như những thằng hề ngu xuẩn. Tao có thể nói như thế được, vì ngày xưa tao đã từng tôn thờ những tên ấy như là những gì bất khả xâm phạm trên đời này. Ngay đến Héraclite, Parménide và Empédocle, bây giờ tao cũng xem thường, xem nhẹ; tao coi ba tên ấy như là ba tên thủ phạm của nền văn minh hiện nay; chưa nói đến Socrate, đó là một tên ngu dại nhất mà tao đã gặp trong đời sống tâm linh của tao.
Tao viết quyển Ý thức mới từ lúc 18 tuổi cho đến 22 tuổi. Bây giờ hiện nay tao vừa đúng 25 tuổi; mấy thời gian gần đây, tao thường nghĩ đến cái chết của tao. Tao thấy rằng nếu tao chết ngay bây giờ thì tao cũng chẳng hối tiếc một mảy may nào cả. Tao đã sống trọn vẹn với tao từng giây phút; tao đã khổ đến điên người, tao đã sướng đến run lên, tao có thể chết được ngay lúc này hay bất cứ lúc nào; đối với tao, thời gian chỉ là một hơi khói bốc lên hay một mùi thơm của con gái xông lên nồng ấm vào lúc ba giờ sáng; còn cái chết chỉ là sự sống bị lột truồng ra, như tao hay mày lột truồng con Nanou hay con Nicole tại xóm St. Denis ở cái thành phố Paris chó má này. “
Ở một phần khác trong Hố Thẳm Tư Tưởng, PCT viết:
…Còn Ivo Andritch và Erich Fromn, bây giờ tao thấy hai tên này hoàn toàn non nớt; còn về Somerset Maugham, André Gide, Fédérico Schmidt, Aldoux Huxley, Hemingway, Jean-René Huguenin, tao thấy chỉ nên liệng họ vào cầu tiêu công cộng…
…hôm sau tôi ngồi uống cà phê đen tại quán Flore và Les Deux Magots ở Saint Germain des Prés để ngửi cho tận cùng những thứ triết lý ba chục xu của Jean Paul Sartre và Simone de Beauvoir; khi ngồi uống cà phê ở Flore và nhìn mưa rơi trên đường phố Saint Germain des Prés, tôi đã thấy hết mọi lý luận rẻ tiền của triết lý hiện sinh, tôi muốn mửa máu đen trên những người làm văn nghệ ở Paris như Jean Paul Sartre, André Malraux, Simone de Beauvoir, François Mauriac, Michel Butor, Samuel Beckett, Ionesco, Nathalie Sarraute, André Breton, Jacques Prévert, Paul Eluard, Henry Michaux, René Char, Jean Genet, Roger Caillois.
… Còn về Jean Paul Sartre và Simone de Beauvoir, nếu họ muốn xin gặp tôi, tôi sẽ không cho gặp mà có lẽ sẽ chửi vào mặt họ…”
Những kiểu phát ngôn như thế đem đến sự khoái chá và sự êm dịu tinh thần cho người trẻ chẳng khác gì sự êm ái của thuốc phiện. PCT phơi ra một phong cách sống cao ngạo, đạp đổ và phóng đãng, để rồi có chết cũng không phải ân hận gì. Phong cách ấy dấu trong nó sự trống rỗng bi đát, hoàn toàn phù hợp với não trạng của người trẻ Sàigòn lúc bấy giờ. Người trẻ muốn nổi loạn, muốn đạp đổ. Nhưng bất lực, họ lao vào sống trác táng. Trong Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ và Triết Học, PCT nói thẳng ra điều ấy :
” Chúng tôi, thế hệ thanh niên Việt Nam từ 15 đến 25 tuổi, muốn nói lên một sự thực đau buồn nhứt trong đời chúng tôi, sự thật bi đát ấy là: CHÚNG TÔI KHÔNG CÒN TIN TƯỞNG NƠI CÁC ÔNG NỮA. Đối
Các ông thường phàn nàn rằng chúng tôi là một thế hệ thối hoá, sống không biết ngày mai, không lý tưởng, trụy lạc, la cà rượu chè, hút thuốc, tục tằn, du côn, mất dạy, lấc xấc, ngang tàng, chỉ biết ăn chơi, non nớt, không làm gì ra hồn, đàng điếm, nhảy đầm, trác táng, hoang đàng, và một triệu hình dung từ khác.
Vâng, chúng tôi hãnh diện chấp nhận hết tất cả những hình dung từ trên. Và chúng tôi chỉ xin nở một nụ cười lễ độ và cúi đầu không biện hộ.
Các ông trách rằng chúng tôi sống không lý tưởng. Lý tưởng là gì? Lý tưởng là gì? Lý tưởng có phải là tranh đấu giữ gìn để cho các ông sống nốt cuộc đời tầm thường an phận của các ông? Mục đích của cuộc đời là Sống - Sống gì? Sống cuộc đời thực sự của mình. Cuộc đời thực sự không phải là cuộc đời của đám đông, của xã hội, của khuôn mòn lối cũ, của công thức tù hãm. Cuộc đời thực sự không phải là những phép tắc luân lý đạo đức. Cuộc đời thực sự không phải là những ông công an, những ông cảnh sát, những ông giáo sư trung học và đại học. Cuộc đời thực sự là chúng tôi là tuổi trẻ.
Chúng tôi không cần lý tưởng, vì lý tưởng là lý tưởng của các ông.
Lý tưởng (dù lý tưởng nào) đều là nhà tù để nhốt lại sức sống vỡ bờ của tuổi xuân; lý tưởng là ảo tưởng; sống không lý tưởng là sống trọn vẹn, là lao mình vào cuộc đời với trọn sự hồn nhiên bỡ ngỡ của mình.
Con người hồn nhiên là không có lý tưởng.
Đối với tuổi trẻ, đối với sự khủng hoảng hiện nay, chỉ có những lối thoát sau đây:
1. Lao vào đời sống và tự tạo trách nhiệm;
2. Tự tử;
3. Lao vào truy lạc trác táng;
4. Điên;
5. Đi tu.
…, tôi muốn tự tử cho xong đời, vì quá buồn cho tuổi trẻ Việt Nam, vì dường như tuổi trẻ Việt Nam bây giờ chỉ sống với những tuyên bố, tuyên ngôn, khẩu hiệu. Đám đông đã đem chiến tranh đến Việt Nam và cũng lại đám đông đứng lên tuyên bố về hoà bình ở Việt Nam.”
2. Chúng ta đã biết gì về Phạm Công Thiện?
Nhà phê bình Đặng Tiến kể một kỷ niệm với PCT:”
“Thiện với tôi, duyên nợ vẫn tiếp tục : tôi ra nước ngoài, làm ngoại giao tại Thụy Sĩ, khoảng 1967. Một hôm đi làm về thì thấy Thiện ôm ba lô ngồi trước cửa. Thiện ở chơi dăm ba hôm gì đó, thường uống rượu say, rồi vác ba lô lên đường. Vài ba năm sau, tôi gặp lại anh tại Paris. Anh tá túc tại nhà in của Thi Vũ, chơi thân với họa sĩ Vĩnh Ấn. Thiện sống lang bang vất vả, có đọc cho tôi nghe bài thơ về cảnh chợ trời Montreuil :
Thân anh như con chó
Đứng đợi giữa chợ chiều
Một chiều em qua đó
Con chó đứng nhìn theo.
Dường như thời đó, anh sống nhờ vào giúp đỡ của nhà văn Henry Miller gửi từ California.
Sau đó cưới vợ, sang Đức, rồi trở lại Paris. Thỉnh thoảng anh đến tìm tôi, chiều thứ hai sau giờ tôi dạy học để cùng đi uống bia tại công trường Contrescarpe, khu Censier, nhìn những con chim đến đậu trên giây thép hay những cành trụi lá. Có hôm anh hỏi xin tôi bao thuốc lá. Tôi bảo « vậy tao mua cho mày cả tút » (cartouche). Thiện trả lời « vậy mày đưa tiền ấy cho tao mua sữa cho con ». Thời điểm này anh vợ con nheo nhóc, không giới hạn sinh đẻ vì theo…quy luật thiên nhiên.”
Ông kết luận về PCT:” trước những tác phẩm dồi dào, người đọc khó nói đến một « sự nghiệp » Phạm Công Thiện hay một Phạm Công Thiện « triết gia » vì tư tưởng không thành hệ thống. Cuộc đời bồng bềnh của Thiện cũng góp phần soi sáng điều này, như « đi cho hết đêm hoang liêu trên mặt đất ».... Chỉ nên dành cho Thiện một kỷ niệm, chút tình cảm, và niềm suy nghĩ, vậy là đủ.”(2)
Đặng Tiến có nhận xét này tôi nghĩ rằng ông có cơ sở :” khó nói đến một « sự nghiệp » Phạm Công Thiện hay một Phạm Công Thiện « triết gia » vì tư tưởng không thành hệ thống” . Đúng là như vậy. Những gì PCT viết về triết học chỉ là ở dạng tùy bút đầy cảm tính chủ quan. Ông muốn phủ định tất cả, muốn vượt qua tất cả, nhưng ông không có một hệ thống tư tưởng của riêng mình vượt qua những triết gia của nhân loại. Ông to tiếng nói rằng: “tôi khinh bỉ tất cả thiền sư; tôi khinh bỉ tất cả triết lý hiện sinh “, nhưng ông lại sống Hiện Sinh, và bám víu vào Thiền. Mặt Trời Không Bao Giờ Có Thực là suy tư hiện sinh của một cái Tôi đi tìm chính tôi, cái tôi đối diện với “nắm cỏ khâu”, cái tôi hiện sinh hướng về cái chết :
” Ừ, tôi đang nhai cỏ khâu, một đám cỏ khâu, “trăm năm còn có già đâu…” .
(Chỗ này hoặc PCT nhầm, cũng có thể ông diễu nhại câu thơ của Nguyễn Gia Thiều trong Cung Oán Ngâm Khúc :”Trăm năm còn có gì đâu/Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì”, dù sao PCT cũng bộ lộ suy tư về cái chết )
Đừng bao giờ tìm ý nghĩa của cuộc đời; cuộc đời không bao giờ có ý nghĩa. Không ai có thể hiểu được bất cứ cái gì trên đời này”.
PCT sống trong trạng thái hoang tưởng :” Tôi đang sống ở nhà thương điên? Có gì bảo đảm rằng tôi không điên? Tất cả những gì xảy ra chung quanh tôi đều do trí óc điên loạn của tôi tạo ra? Có gì bảo đảm rằng tôi vẫn là người bình thường? Có gì bảo đảm rằng tôi đang sống? Tôi đã chết?
Tôi muốn phá vỡ nhà mồ, tôi thấy mình mọc nanh ở hai khoé miệng, tôi đeo năm mươi sọ người trên cổ, tôi trở thành con quỷ của thế kỷ XX: tôi mọc đuôi, tôi mọc móng, tôi mọc gai, tôi mọc lông, hai nanh miệng mọc dài và nhọn, tôi là một con quỷ có cánh, tôi bay xuống nghĩa địa, tôi nhảy từ ngôi mộ này qua ngôi mộ kia. Tôi cám dỗ tất cả thần thánh; tôi phá nhà thờ, điện thờ, đình chùa. Tôi phá trinh tất cả những gì trong sạch và thuần khiết; tôi cười ra lửa và khóc ra máu, tôi hét ra sắt, tôi nói ra thép, tôi kêu ra đá.
Tôi điên. Tôi không điên. Tôi, tôi. Chữ tôi làm tôi nghẹn; chữ tôi làm tôi mệt; chữ tôi làm tôi đau: tôi, tôi, tôi!
PCT Thú nhận điều này :
” Một tuần qua, nhất là trong ba ngày qua, tôi bị khủng hoảng dữ dội, tôi không còn biết gì nữa, tôi bước đi hoang vu chới với trong sự trống không của đời sống; hoả ngục: tôi nghiến răng chịu đựng, giây thần kinh căng lên đến độ cuối, tôi tưởng thần kinh sắp đứt và bắn máu đầu tôi ra mũi; tôi chạy trốn tôi, tôi chạy tới lui, quanh quẩn, như một con chuột đói; đau đớn nhất là tôi chạy trốn và biết rõ rằng mình đang chạy trốn mình. Chạy đâu? Tôi muốn nhảy vào thế giới xa lạ của sự chết. Chẳng biết tôi chịu đựng đến lúc nào? Tất cả lối đi đều mất rồi. Tôi đứng nhìn thẳng vào đám mây trắng trong nửa giờ.”Đọc đoạn văn này, người đọc nhận ra ngay tư tưởng Hiện Sinh trong truyện ngắn Một Dụ Ngôn Nho Nhỏ của F. Kafka
PCT mượn tứ thơ trong bài Ngôn Hoài của Thiền Sư Không Lộ để nói về Hố Thắm :” Tư tưởng của Việt Nam là tư tưởng của Việt và Tính; nguồn gốc của Việt và Tính bắt đầu từ Trung Hoa, Ấn độ và Hy lạp; thế kỷ XX là thế kỷ tựu thành của Việt và Tính; sự tựu thành ấy chính là hố thẳm: tiếng nói của hố thẳm là tiếng nói trên đỉnh núi chót vót (hữu thì trực thượng cô phong đỉnh, trường khiếu nhất thanh hàn thái hư); tiếng nói ấy, tiếng kêu trầm thống ấy làm lạnh buốt cả bầu trời và xoáy vòng cuộn tròn xuống hố thẳm, xuống niềm im lặng của hố thẳm mà người xưa gọi là “uyên mặc”.(Im Lặng Hố Thẳm)
PCT gọi hai câu thơ :“hữu thì trực thượng cô phong đỉnh, trường khiếu nhất thanh hàn thái hư“ là“tiếng kêu trầm thống làm lạnh buốt cả bầu trời và xoáy vòng cuộn tròn xuống hố thắm” . Tôi ngờ rằng PCT chưa đọc được thơ vô ngôn của Thiền. PCT hiểu hai câu ấy theo nghĩa tường minh của ngôn từ. Thực ra đó chỉ là một loại “tiếng kêu” của người lúc ngộ Thiền.
PCT theo Thiền nhưng mới chỉ ở mức độ “phá phách, lật đổ”, chưa hẳn là Phá Niệm, chưa bao giờ đạt tới Phá Chấp, Phá Ngã để Đốn Ngộ! PCT nói với Nh. Tay Ngàn :” tao muốn chửi thề với tất cả lý tưởng: tao chỉ muốn phá hoại và chỉ muốn phá hoại;”.
Tất cả những gì PCT viết ra có là thực tâm viết, để đem đến cho người đọc những tri thức đáng tin cậy, giúp người đọc nhận thức được những giá trị của tư tưởng, của nghệ thuật không? Tôi buộc phải hoài nghi những điều như thế khi nghe PCT nói với Nh. Tay Ngàn : “Tao là một thằng mâu thuẫn cùng cực; muốn nói chuyện với tao thì đừng lý luận, vì tao có thể lý luận xuôi hay ngược gì cũng được. Chẳng hạn như mới hôm qua tao chửi André Gide, tao mắng Jean Paul Sartre nhưng ngày mai mày sẽ thấy tao ca tụng Gide đến tận mây xanh hay tỏ vẻ nồng nàn với Sartre. Tại sao tao không có quyền mâu thuẫn với tao”. Hóa ra đó chỉ là sự tráo trở. Chân lý ở phía ông, xuôi ngược gì cũng được. Thành ra những gì PCT viết, trình diễn ra bên ngoài, không phải là con người thực của ông, không phải ông thực tâm muốn nói với mọi người với tư cách một trí thức uyên bác hay một Thiền sư đã an trú được Tâm, Nó chỉ là giả, bộ mặt giả, che dấu con người thật của ông. Tôi hiểu tại sao GS Nguyễn Văn Trung lại im lặng không đối thoại với PCT.
Ngày nay bạn đọc có thể thấy rõ những “nhận định” tư tưởng của ông có giá trị như thế nào.
PCT viết :
” Văn nghệ đã chết
Thi ca đã chết.
Thơ đã chết.
Tư Tưởng đã chết.
Heidegger đang tự đào mộ để tự chôn.
Arthur Rimbaud cũng đã chết.
Henry Miller thấy rằng Arthur Rimbaud đã đầu thai trong tôi.
Tôi giựt mình và nói: “Tôi sẽ giết ông”.
Tôi đòi giết luôn cả Henry Miller. …
…” Về Henry Miller, tao muốn nói lên lời tiên tri tối hậu, từ năm chục năm nữa trở đi thì Henry Miller sẽ ảnh hưởng dữ dội đến nhân loại còn hơn Jesus Christ ảnh hưởng đến Tây phương hay Phật Thích Ca ảnh hưởng đến Đông phương. Lời tiên tri của tao như lửa đánh vào máu; tao mong mày sống dai và sẽ thấy những gì tao báo trước hôm nay. “
Có lẽ không cần phải bình luận gì thêm về giá trị những gì PCT viết, bởi đúng 50 năm sau PCT nói những lời tiên tri trên, Thi ca, Tư tưởng đâu có chết, PCT cũng chẳng giết được Henry Miller, và Henry Miller đến giờ, cũng chỉ là kẻ tầm thường trước Phật hay Jesus Christ , như mọi người tầm thường khác.
3. Có phải PCT là nhà thơ nhà văn tài hoa, một nhà tùy bút xuất sắc ?
Thơ PCT không có gì đặc sắc. Ngày Sinh Của Rắn lặp lại những ý tứ PCT viết trong Hố Thẳm Tư Tưởng và Im Lặng Hố Thẳm, chỉ có thêm tình yêu, nỗi nhớ với người con gái thê Quết Hương. Đôi chỗ PCT sử dụng hình ảnh ẩn dụ và có được vài hình ảnh lạ. Giọng thơ PCT hiền hơn Văn, thật hơn Văn. Thơ PCT không có tư tưởng cũng không có gì gọi là cách tân nghệ thuật, cũng không để lại ấn tượng gì nếu đặt cạnh thơ Thanh Tâm Tuyền, Bùi Giáng và Phạm Thiên Thư
Xin đọc một đọan trong Ngày Sinh Của Rắn
(Lưu ý, PCT sinh năm con rắn Tân Tỵ)
IV
trời mưa New York cây mọc
nhớ Hương trời mưa ngày tháng
nhớ Hương đường hoang mái vắng
New York chỉ còn Hương trong giấc ngủ
tim anh tràn máu
con chim đã bay về rừng đạn
anh không còn làm tu sĩ
anh chỉ còn Hương trong giấc ngủ
anh chỉ còn máu để đổ vào tim Hương
đổ vào tám tách cà phê đen
anh uống mỗi đêm
tại Greenwich Village
tại làng Thi Sĩ
tại đường khói bay
tại Hương trong giấc ngủ
tại chiều ba mươi tết ở Việt Nam
bây giờ anh xa, Hương đến
mấy đại dương xanh
mấy phương trời cỏ mọc
mấy phương trời Hương khóc
Hương còn ca hát
Hương còn phơi áo giữa phố buồn
Hương còn cười
mười năm rồi cây quế
vẫn mọc trên đời anh
trên mắt anh
môi anh
trên bước chân buồn phố mẹ ngày xưa
trên bước chân chiều phố lạ hôm nay
mưa làm tóc anh thơm
mùi cây quế
giữa hồ
mọc giữa hồ Quế Hương
tóc anh mọc dài
che chở Hương
lúc mưa rơi
lúc đông lạnh
lúc chim chiều đi mất
mưa trên phố đêm
trên quán cà phê Italia
trên chiến tranh
của quê hương
của Quế Hương
còn anh…
Những bài thơ PCT làm về sau này cũng làng nhàng như thế.
VÔ ĐỀ
Bôn ba ngoài vạn dặm
Cũng chỉ một trăng rằm
Bao nhiêu là hố thẳm
Xoáy về nốt ruồi đậm
TẾT XƯA
Lơ lửng bông mồng gà
Chiều ba mươi tết ta
Tôi ôm gà tre nhỏ
Chạy trốn tuổi thơ qua
PCT nói về thơ của mình như thế này : “tao thù ghét tất cả thi sĩ; thỉnh thoảng tao chỉ làm thơ để tán gái. Hoặc làm thơ để nhớ rằng Rimbaud đã chết”
Văn của PCT có khí sắc hơn, gây được ấn tượng hơn. Nguyễn Hưng Quốc nhận xét :” Phạm Công Thiện có một cái tài đặc biệt rất hiếm người có là ông có thể làm cho độc giả đọc ông một cách thích thú, say mê và thán phục mặc dù, khi gấp sách lại, người ta hoàn toàn không hiểu là ông nói cái gì cả. Bởi vậy, mặc dù tác phẩm của ông nổi tiếng là khó hiểu, ông vẫn có một lượng độc giả khá lớn, khá trung thành, và đôi khi khá bình dân. Nói như thế cũng có nghĩa là nói thế mạnh đầu tiên và nổi bật nhất của Phạm Công Thiện chính là ở khả năng diễn đạt, hay nói cách khác, ở giọng văn của ông. Đó là một giọng văn có sức hấp dẫn lạ lùng, một giọng văn vừa uyên bác vừa sôi nổi, vừa rất trí tuệ và lại rất giàu chất thơ.”(3)
Tuy nhiên tôi ngờ ngợ về nhận định này của Nguyễn Hưng Quốc : “Trùng trùng ẩn dụ trong từng trang viết của Phạm Công Thiện. Điều đó làm cho hầu hết các bài viết văn xuôi của Phạm Công Thiện đều trở thành những bài tuỳ bút. Tôi nghĩ, rất nhiều tác phẩm triết lý của Phạm Công Thiện sẽ trở thành dễ hiểu và tuyệt vời vô cùng nếu chúng được đọc như những bài tuỳ bút… Giọng văn của ông thật phóng khoáng, thật độc đáo và thật đẹp. Từ bài văn ấy, đọc lại các tác phẩm khác của Phạm Công Thiện, tôi phát hiện ra một điều khá bất ngờ, hình như chưa ai nói đến: không chừng Phạm Công Thiện là một trong những nhà tuỳ bút xuất sắc của Việt Nam.”Tôi ngờ ngợ vì đặc trưng thể loại tùy bút không phải là ở việc sử dụng tu từ ẩn dụ như Nguyễn Hưng Quốc nhận định. Cũng vậy, giọng văn không hẳn đã là đặc trưng của thể loại tùy bút. Nếu nhờ giọng văn phóng khoáng mà PCT trở thành một nhà tùy bút xuất sắc thì tôi e rằng đó sẽ là một lời khen hơi lạc đề.
Văn PCT có những đặc điểm gì?
Tôi đồng ý rằng Mặt Trời Không Bao Giờ Có Thực, Hố Thẳm Tư Tưởng, Im Lặng Hố Thẳm là những tác phẩm có chất tùy bút, bởi nhân vật chính là cái tôi tác giả, cái tôi ấy viết hoàn toàn ngẫu hứng, và thoải mái phóng ra mọi cảm xúc, suy nghĩ, thể hiện bằng mọi kiểu giọng điệu. Xin đọc:
“Bây giờ, hiện tại, nơi đây, tôi đang nhìn. Tôi vừa đi xuống cầu tiêu của quán cà phê Dôme; bước vào nhà cầu, vừa đóng cửa lại, tôi liền nhìn thấy một trăm ngàn người trước tôi cũng đã bước vào nhà cầu này và đóng cửa lại; họ cũng cởi quần ra và ngồi xuống, rồi cũng nhìn vào chỗ trống không của bóng tối. Họ cũng nhìn. Tôi cũng nhìn và tôi thấy: trên vách tường nhà cầu có người viết câu như vầy: “Kẻ nào đã xây cất cầu tiêu này với bàn tay mình thì kẻ ấy đã phụng sự cho loài người hơn là De Gaulle đã phụng sự cho nước Pháp”.
Tôi nhìn thấy câu trên, rồi tôi nhìn thấy tất cả những quyển sách dày cộm của Platon, Aristote, Spinoza, Jaspers, Heidegger v.v., chỉ là những lời chú thích dài dòng cho câu văn cô đọng hàm súc trên; một câu văn viết trên cầu tiêu không phải là một câu văn; nó là một vết máu xuất phát từ đầu óc một người vô danh khi người ấy ngồi trong bóng tối của nhà cầu để lọc sạch thần trí và thể xác; người ấy không có tham vọng, người ấy không sắp đặt chuẩn bị; ngồi một mình trong bóng tối và nhìn vào sự trống không của tư tưởng và nhà cầu; dùng một tiếng sét, người ấy bỗng nhìn thấy máu đầu té ra thành mực than đen trên vách tường để biến thành câu sấm theo dòng Héraclite:
“Kẻ nào đã xây cất cầu tiêu này với bàn tay mình thì kẻ ấy đã phụng sự cho loài người hơn là De Gaulle đã phụng sự cho nước Pháp”.
Câu ngẫu hứng trên là một cho Tất Cả. Là Chân Lý huyền nghĩa, là Tiếng Gọi của Tính (“Ev Pánta”). “
Đoạn văn sau đây mang được đặc trưng văn phong PCT, trong đó hình ảnh ẩn dụ của văn chương (kiểu Trang Tử) được dùng dày đặc, kết hợp với từ Hán Việt và những liên tưởng trùng trùng lớp lớp, từ nhân vật này đến đến nhân vật khác, để phóng ra những nhận định. Có khi cả một chương, PCT mở đầu chương rồi liên tưởng lan man đủ kiểu rồi mới trở lại chủ đề .
“Thiền Sư Không Lộ ở thời Lý của quê hương một lần kia cô đơn bước lên tận một đỉnh núi chót vót và sực kêu lên một tiếng bơ vơ làm lạnh cả bầu trời xanh lơ đầy mây trắng; dưới kia là hố thẳm hoang sơ, hố thẳm của quê hương, niềm câm lặng của hố thẳm bỗng vọng lên Tính và Việt : triết lý của Việt Nam ra đời, vỗ cánh bay lên như phượng hoàng để rồi mười năm sau hóa thân làm rồng bay vút trời nhân loại. Máu lửa của quê hương làm hôn phối cho núi cao và hố thẳm. Trong một bài thơ đầu tiên trong đời, Nietzsche đã nói đến “hố thẳm của hiện thể”: “Des Daseins Abgrund” (An die Melancholie, 1871). Hiện thể của Nietzsche là hiện thể của Tây phương; hiện thể của Tây phương dính liền với hiện thể của Việt Nam, nhất là từ hạ bán thế kỷ XX; Việt và Tính là Việt của Việt Nam và Tính của Tính mệnh. Tư tưởng của Việt Nam là tư tưởng của Việt và Tính; nguồn gốc của Việt và Tính bắt đầu từ Trung Hoa, Ấn độ và Hy lạp; thế kỷ XX là thế kỷ tựu thành của Việt và Tính; sự tựu thành ấy chính là hố thẳm: tiếng nói của hố thẳm là tiếng nói trên đỉnh núi chót vót (hữu thì trực thượng cô phong đỉnh, trường khiếu nhất thanh hàn thái hư); tiếng nói ấy, tiếng kêu trầm thống ấy làm lạnh buốt cả bầu trời và xoáy vòng cuộn tròn xuống hố thẳm, xuống niềm im lặng của hố thẳm mà người xưa gọi là “uyên mặc”. (Im Lặng Hố Thẳm)
Về diễn đạt, PCT sử dụng kiểu chơi chữ
“Những câu hỏi trên sẽ là khởi điểm cho cuộc song thoại giữa tư tưởng Á Đông và tư tưởng Âu châu và nước Việt Nam là mảnh đất hiện nay có đủ tính kiện để cho cuộc song thoại trên được tựu thành. Tựu thành là gì?
Đối thoại tựu thành song thoại.
Song thoại tựu thành độc thoại.
Độc thoại tựu thành vô thoại.
Vô thoại tựu thành vô ngôn.
Vô ngôn tựu thành nguyên ngôn.
Nguyên ngôn tựu thành nguyên tính.
Nguyên tính tựu thành tính.
Tính tựu thành vô tính
Vô tính tựu thành không.
Không tựu thành Huyền.
Huyền tựu thành tự tính.
Tôi đã đùa chữ; nhưng đùa chữ là hoạt dụng của tự tính, gọi là hoạt dụng của Thiền. “
Nói cho đúng , sự khó hiểu trong văn của PCT xuất phát từ việc PCT sử dụng cách nói của kinh Kim Cang. Nói vậy không phải là vậy, mà chính là vậy. Kinh Kim Cang viết :”gọi là thuyết pháp là thật không có pháp gì để thuyết, như thế mới được gọi là thuyết pháp” (Vô pháp khả thuyết thị danh thuyết pháp). “ý tưởng về ngã thì Như Lai nói phi ý tưởng ngã nhưng người tầm thường thì bảo là ngã. Trưởng lão Thiện hiện, người tầm thường ấy Như lai nói là phi người tầm thường”. Cách nói này làm cho người đọc mắc vào nhị nguyên Có-Không. Chỉ khi vượt qua nhị nguyên, xả bỏ cái Tâm Sai Biệt mới có thể lĩnh hội được.
“Bất cứ kẻ nào muốn phá hủy tư tưởng Heidegger thì cũng không thể nhảy qua được chính bóng hắn. Như thế nền tảng của sự phá hủy cũng có nghĩa là sự phá hủy chính nền tảng ấy; ở đây không phải là “chơi chữ”, việc “chơi chữ” tất nhiên không phải là sự việc chính yếu của tư tưởng: câu vừa rồi chỉ muốn diễn tả ý nghĩa trừu tượng sau đây: căn thể của hư vô có nghĩa là hư vô của chính căn thể ấy”
PCT có lối viết phóng bút như thế này, kiểu viết ngẫu hứng của Tùy Bút
“Sau Hàn Mặc Tử ngôn ngữ Việt Nam vỗ cánh run rẩy sương mai trong rừng đông bàng bạc.
Trong thế giới vô hình, Rimbaud, Leopardi, Keats và Hoelderlin đều gặp nhau; khi bốn thi sĩ gặp nhau, họ đều thì thầm bàn tán nhau về con chim phượng hoàng ở trời Đâu Suất. Bỗng nhiên từ cõi vô hình một hoả diệm sơn của Thiên Thanh vụt nổ bùng lên, chấn động cả từng tượng thanh khí: Rimbaud, Leopardi, Keats và Hoelderlin hốt hoảng kinh hồn: bốn thi sĩ run lẩy bẩy, “run như hơi thở chạm tơ vàng” vì Hàn Mặc Tử vụt hiện trên ngọn núi lửa và mỉm cười đưa tay rắc máu xuống Hố Thẳm của Việt Nam; lúc bây giờ Leopardi, Rimbaud, Keats và Hoelderlin liền quì xuống cúi lạy những giọt máu cô liêu của thi ca Á Đông.
Hàn Mặc Tử vỗ cánh phượng hoàng và bay xuống đậu giữa Thiên Thanh, Rimbaud và Hoelderlin đứng dậy chắp tay, đứng về phía trái; Keats và Leopardi đứng dậy chắp tay, đứng về phía mặt; Hàn Mặc Tử bay xà xuống đậu ngay chính giữa; ngay lúc ấy, lập tức hai Thi Sĩ bên trái và hai Thi Sĩ bên mặt quì xuống lạy ba triệu lạy; khi bốn Thi Sĩ lạy xong và ngước mặt lên thì Hàn Mặc Tử đã vụt biến mất và hoả diệm sơn biến thành một quả trứng phượng hoàng khổng lồ: quả trứng phượng hoàng cô liêu xoay tròn năm vòng và thu hình nhỏ lại thành trái đất; từ ấy, trái đất liên tục xoay tròn giữa vũ trụ vô biên và con người không còn làm thơ nữa. “
Viết như thế gọi là tài hoa cũng được (cái tài hoa của Trang Tử trong Nam Hoa Kinh), nhưng cách viết như thế chỉ là một kiểu múa bút ở chỗ không người.
4. Hành trình nhảy qua cái bóng của chính mình
Lần tái bản lần thứ tư Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ và Triết Học, PCT nhìn lại và hoạch định đời mình như sau:
“Tai nạn lớn lao nhất trong đời tôi là phải chịu đoạ đầy làm thần đồng lúc còn thơ dại, rồi lúc lớn lên làm thanh niên thì phải chịu đoạ đầy làm thiên tài.
Bây giờ gần 30 tuổi thì tôi lại xuống núi (chứ không phải lên núi như Zarathustra) để làm nước chảy ồn ào trong những lỗ cống của cuộc đời.
Thực ra còn đến hai tháng nữa, tôi mới đúng 29 tuổi. Tôi cho phép tôi làm nước chảy trong cống rãnh trong thời gian một năm nữa thôi, từ 29 tuổi đến 30 tuổi.
Từ 30 tuổi trở đi cho đến 40 tuổi thì tôi sẽ không là tôi nữa. Đó là điều bí mật chỉ có tôi mới biết rõ vì sao tôi sẽ không là tôi nữa.
Từ 40 tuổi cho đến 50 tuổi, hư vô sẽ thổi trên mặt đất.
Từ 50 tuổi cho đến 60 tuổi thì kỷ nguyên Tây lịch đã tới năm 2000.
Từ 60 tuổi cho đến 70 tuổi thì trái đất sẽ rất nhiều chim, những con chim biết nói tiếng Phạn.
Từ 70 tuổi cho đến 80 tuổi thì núi Hy mã lạp sơn sẽ sụp đổ và chảy tan thành một đại dương mới.
Từ 80 tuổi cho đến 90 thì Thái Bình Dương sẽ trở thành nấm mồ chôn hết lục địa.
Từ 90 tuổi cho đến 100 thì mặt trời trở thành mặt trăng và mặt trăng trở thành địa cầu mới. “
Những hoạch định ấy được viết bằng ngôn ngữ ngẫu hứng, có hình ảnh của thơ, đúng phong cách PCT, song nó vô nghĩa, bởi trong thực tiễn đã không có điều nào đúng như ông đã dự cảm.
Chẳng hạn, câu “Từ 50 tuổi cho đến 60 tuổi thì kỷ nguyên Tây lịch đã tới năm 2000.” Đó chỉ là một câu thông tin không có thông tin, nó bộc lộ sự trống rỗng trong tâm thức PCT. Ông dự cảm rằng :” Từ 60 tuổi cho đến 70 tuổi thì trái đất sẽ rất nhiều chim, những con chim biết nói tiếng Phạn. “ tức là những năm từ 2001 đến 2011, trái đất sẽ hòa bình trong tinh thần của Phật (đất lành chim đậu, rất nhiều chim là đất rất an lành. Ở Việt Nam nói đến chữ Phạn người ta liên tưởng đến kinh Phật) . Nhìn vào thực tại thế giới 10 năm qua (2001-2011) thế giới có bao nhiêu biến động, gần nhất là động đất ở Nhật, trong không khí đã đầy bụi phóng xạ, đất nào an lành cho chim ? Cứ theo PCT tiên tri thì từ 2011 đến 2021 sẽ có đại hồng thủy “Thái Bình Dương sẽ trở thành nấm mồ chôn hết lục địa.”?! và sau hồng thủy , từ 2021 đến 2031 sẽ là một thế giới mới. Có lẽ chẳng ai ngây thơ để tin những lời ngẫu hứng thi sĩ như thế, bởi PCT không phải là nhà tiên tri.
PCT trích một câu của của Heidegger, và cho rằng đó là “ một câu làm nền tảng cho mọi cuộc phá hủy trên đời này…”
“Không ai có thể nhảy qua chính bóng mình”.
(Keiner springt über seinen Schatten).
Nhưng PCT đã thực hiện nhiều “cú nhảy” trong hành trình cuộc đời của mình , nhưng ông có vượt qua được cái bóng của mình không ?
Năm 1963 (22 tuổi) PCT đến PHV Hải Đức Nha Trang cầu pháp với Hòa thượng Thích Trí Thủ, Giám Viện khi ấy, và được Hòa Thượng ban pháp danh là Nguyên Tánh. Đó là “cú nhảy” thứ nhất từ Thiên Chúa Giáo sang Phật Giáo. Về mặt tâm linh, PCT không có lời giải thích nào về hành động này. Vậy ý nghĩa của nó là gì? Tại sao ở tuổi 22 PCT lại vào nương nhờ cửa chùa? Thời ấy nếu không là sinh viên đang học và được lên lớp, anh sẽ bị bắt quân dịch ngay. PCT không có bằng Tú Tài, chưa từng học Đại Học. Có lẽ cửa chùa là nơi an toàn nhất cho Thiện núp nhờ ?
Năm 1970 PCT sang Pháp, rồi sang Đức, trở về Paris. Tại sao PCT đang dạy ở Đại Học Vạn Hạnh lại bỏ sang Pháp? Trong khi bạn bè ông đang chết ngoài chiến trường ? “Cú nhảy” này có ý nghĩa gì? Ông trả lời phỏng vấn về việc rời bỏ quê hương:” đối với tôi danh từ quê hương chẳng có ý nghĩa gì cả, tôi chỉ biết rằng nơi tôi được sinh ra đời chỉ là nơi tôi đã trải qua những bi kịch đau đớn thảm khốc nhất trong một kiếp người; tôi hận thù Việt Nam, tôi kinh tởm Việt Nam, tôi muốn bôi xoá hai chữ Việt Nam trong tim tôi và óc tôi.”
Như vậy là đã rõ. Từ “cú nhảy” này, Thiện “nhảy “tiếp bước nữa : Tại Pháp, 1971, PCT ông cởi áo cà sa, lấy vợ, sống nheo nhóc với vợ và 5 con. Theo Đặng Tiến, cuộc sống của PCT có “cải thiện khi anh tìm được chỗ dạy học tại Đại Học Toulouse, môn Triết học… Tây Phương.”. ”Cú nhảy” thứ ba này đã làm rõ ý nghĩa “cú nhảy” thứ hai và thứ nhất. Suốt thời gian ông sống ở châu Âu ( 1970 đến 1983) không ai rõ. Năm 1983, PCT được Hòa thượng Thích Mãn Giác (trụ trì chùa Việt Nam ở Los Angeles) bảo lãnh sang Mỹ . Ông lại bỏ vợ con để nương nhờ cửa Phật. Và ông đã đi hết hành trình cuộc đời của mình. Những “cú nhảy” như thế có ý nghĩa gì ? PCT bỏ hết những “cái bóng” của quá khứ chăng, phải chăng PCT đã “ngộ” ra đời mình, những vinh nhục đã qua chỉ là những ảo ảnh, những cái bóng vô nghĩa? Không có lời giải thích nào cả.
Những tưởng với tri thức uyên bác, với sự đạp đổ tất cả, và “giết” tất cả, kể cả Henry Liller là người ông tôn sùng, PCT sẽ trở thành một triết gia vĩ đại của Việt Nam và thế giới, triết học của PCT sẽ thay thế Heidegger, sẽ vượt qua Hiện Sinh và Thiền. Nhưng điều ấy đã không xảy ra . PCT muốn làm một cuộc lật đổ tư tưởng nhưng đã chẳng lật đổ được ai, ngoại trừ ông lật đổ chính mình. Thế giới vẫn nói đến Heidegger, vẫn nói đến Satre, vẫn đọc Buồn Nôn, đọc Hữu Thể và Thời gian, không biết thế giới có ai đọc Mặt trời Không Bao Giờ Có Thực hay Hố Thẳm Tư Tưởng không? PCT đã không vượt qua được Heidegger. Ông thú nhận :” Hầu hết những quyển sách sôi nổi của tôi, từ Ý thức mới trong văn nghệ và triết học (1963), đến Hố Thẳm Tư Tưởng (1963) và Im Lặng Hố Thẳm (1966) đều được viết ra từ ý thức của một con người trẻ tuổi được nuôi dưỡng bằng tư tưởng của Heidegger từ gần mười năm trước.Thực sự, tôi đã nhiều lần muốn vượt Heidegger, nhưng chính sự vượt qua ấy cũng bị kẹt trong tư tưởng của chính Heidegger.”(Trả lời phỏng vấn)
Với tri thức uyên bác như vậy, sau Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ và Triết Học, người ta trông đợi PCT sẽ viết bộ lịch sử tư tưởng và văn học thế giới làm tài liệu học tập cho sinh viên Việt Nam và thế giới, nhưng điều ấy đã không xảy ra. PCT đã đọc văn học và tư tưởng với cảm thức ngẫu hứng của thi sĩ, không phải với bộ óc của nhà nghiên cứu, vì thế chẳng ai coi Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ và Triết Học là tài liệu có giá trị để tham khảo, học tập.
Cho đến nay xung quanh PCT vẫn còn nhiều điều bán tín bán nghi. Rằng học vị Tiến sĩ của ông là có thật hay không? Bởi khi ở Mỹ, ở Pháp ông đã bỏ học. PCT nói với Nh. Tay Ngàn : “Thời gian tao ở Huê Kỳ, tao đã bỏ học, vì tao thấy những trường đại học mà tao học, như trường đại học Yale và Columbia chỉ toàn là những nơi sản xuất những thằng ngu xuẩn; ngay đến những giáo sư của tao chỉ là những thằng ngu xuẩn nhất đời; tao có thể dạy họ nhiều hơn là họ dạy tao. Qua Pháp, tao đã sống nghèo đói thế nào thì mày cũng đã biết rõ rồi; những lúc tao nằm ngủ tại những vỉa hè Paris vào những đêm đông đói lạnh, những lúc đói khổ như vậy, tao vẫn còn cảm thấy sung sướng hơn là ngồi nghe mấy thằng giáo sư đại học Yale hay Columbia giảng cho tao nghe về Aristote hay Hegel, về Heidegger hay Héraclite”
Tác giả T.Vấn trong bài “nhớ đứng chờ ta ở cõi siêu” ngày 12.03.2011 đặt vấn đề rằng “Phạm Công Thiện là một triết gia hay kẻ mắc bệnh điên tư tưởng? Là một học giả hay chỉ là con mọt sách? là một thi sĩ, một nhà văn hay kẻ lộng ngôn xem chữ nghĩa như một trò chơi? Là bậc tu hành tinh thông lẽ đạo bằng trí thông minh tuyệt vời hay kẻ mượn áo cà sa trốn lánh việc đời rồi hốt nhiên trở nên “ngộ” một cách bất đắc dĩ? Là con người lập dị nhờ vào khả năng ngôn ngữ hơn người hay kẻ phá phách cậy mình thông kinh đạt quyển nên tung hoành chốn trường văn trận bút như chỗ không người? Là vị thần đồng thực sự hay kẻ kiêu ngạo coi trời bằng vung?”(4)
Và đây là câu trả lời của PCT từ ngày xưa :” một tạp chí tên gì đó đã đăng một bài dài nhan đề là “Phạm Công Thiện, ông là ai?” và gần đây hơn nữa có một tạp san khác lại đăng loạt bài “Hiện tượng Phạm Công Thiện” để rồi kết luận rằng tôi là thằng điên chữ, một tên điếm đàng, một tên côn đồ trong văn nghệ vân vân. Tôi đã say sưa đọc tất cả những gì thiên hạ nói, viết, phê phán, đề cao, chỉ trích, mạt sát tôi; tôi say sưa đọc những thứ đó như đọc chính những gì mình đã viết và đã muốn viết: vì tất cả những gì người ta đã nói về tôi đều đúng là điều tôi muốn nghĩ về tôi”(5)
Khi đã là người trưởng thành, PCT nhận ra điều này : “Tai nạn lớn lao nhất trong đời tôi là phải chịu đoạ đầy làm thần đồng lúc còn thơ dại, rồi lúc lớn lên làm thanh niên thì phải chịu đoạ đầy làm thiên tài. “Thế nghĩa là ông đã “nhảy” khỏi thế giới của “thần đồng” và “thiên tài” để trở về với thân phận một Con Người”, như bao thân phận khác trong cõi đời này.
Thời trẻ tuổi, tuổi của nổi loạn, nhờ thiên phú, ông giỏi ngoại ngữ và đọc nhiều, viết nhiều, gây hấn với xã hội để khẳng định mình. Ông đả kích luận văn tiến sĩ của Nguyễn Văn Trung, ông bá vai huyn h đệ với Henry Miller, ông đạp đổ tất cả để nâng mình lên. Nguyễn Văn Trung im lặng. Sau này (2007) Nguyễn Văn Trung nói rõ về PCT :” Tôi thật thắc mắc đời sống cụ thể của ông Phạm Công Thiện không cho thấy tỏa ra một vẻ đạo hạnh nào của nguời tu trì thánh thiện. Ngược lại, tôi thấy ông đã có những lựa chọn trong đời sống cụ thể hoàn toàn trái ngược với những gì ông nói hay viết ra. Ông nói khinh bỉ nghề dạy học làm thầy người khác, nhưng lại vào tá túc tại Đại Học Vạn Hạnh, mặc áo cà sa mang pháp danh “Đại đức Thích Nguyên Tánh” khỏi phải đi lính như những người khác, cùng tuổi không bằng cấp.... Bây giờ đọc lại bài phê bình của ông Thiện, những bức thư ông gửi cho tôi, tôi mới nhận ra, quả thực, tôi có trách nhiệm nào đó. Các thư ông viết cho thấy rõ ông mong mỏi có chỗ đứng trong giới nghiên cứu giảng dạy đại học, mà tôi lúc đó hoàn toàn có khả năng đáp lại mong muốn chính đáng của ông. Chẳng hạn đăng bài biên khảo trên tạp chí Đại Học, ra sách ông viết trong nhà xuất bản Đại học, mời ông làm giảng viên Đại học Huế, diễn thuyết ở Huế, Đà Nẵng, Nha Trang trong khuôn khổ lịch trình sinh hoạt văn hóa Đại học Huế, và sau cùng vận động cho ông đi du học, không phải vì ông là người Công giáo như tôi đã làm cho vài người khác. Tóm lại ông đã gõ cửa tôi, có lẽ sau khi đã thử gõ nhiều nơi khác, nhưng tôi đã không mở cửa cho ông, và vì thế tôi đã đẩy ông vào tình trạng thất vọng, bất mãn. Ông Phạm Công Thiện hiện còn sống ở Úc. Nếu quả thực ông đã thất vọng vì cách đối xử của tôi hồi đó, thì tôi nhìn nhận có trách nhiệm về phần tôi và xin lỗi ông. Nói cho rõ hơn, ông Thiện oán giận bất mãn, những trí thức nói chung, thuộc giới đại học và trí thức Công giáo nói riêng, cụ thể như Nguyễn Văn Trung, Lê Thanh Minh Châu, Cao Văn Luận, là những người đồng đạo của ông ở Đại học Huế đã không tạo điểm tựa cho ông tiến thân.”(6) Như vậy, đã rõ cội nguồn của những nổi loạn, những đạp đổ, nhưng bất mãn của PCT trong các tác phẩm của ông thời những năm 1960-1970.
PCT cũng bày tỏ thái độ chính trị của mình. Ông nói về các nhà thơ Cách Mạng và nói về Cách Mạng :” Đó là chưa nói đến những nhà thơ cách mạng, tôi muốn để họ yên, vì họ cũng bị nhốt trong xà lim, họ khác tôi là họ bị nhốt, mà không phản đối hay đã phản đối, họ khác tôi là họ bị nhốt mà không biết bị nhốt, họ là Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Pablo Neruda, Paul Eluard, Aragon, v.v.
Hỡi các anh làm cách mạng, anh phá một xã hội định thể để rồi bị nhốt vào một xã hội định thể khác. Tôi đã bị nhốt trong xà lim, tôi không phá, tôi không hy vọng, tôi không chịu rửa tội vì tôi hoàn toàn vô tội; tôi đã bị nhốt trong xà lim, nhưng tôi có thể nhốt xà lim lại, xà lim sẽ bị tôi nhốt tù.”(Hố Thẳm Tư Tưởng)
Tháí độ ấy của PCT giúp người đọc hôm nay hiểu rõ hơn các “cú nhảy” của ông khỏi Việt Nam năm 1970:” tôi hận thù Việt Nam, tôi kinh tởm Việt Nam, tôi muốn bôi xoá hai chữ Việt Nam trong tim tôi và óc tôi”. Có lẽ không một người Việt Nam nào lại có suy nghĩ, tình cảm và thái độ như thế đối với đất nước mình, dân tộc mình, trong thời đại dầu sôi lửa bỏng của những thử thách quyết liệt ý chí sức mạnh và sự tồn tại của dân tộc.
Có thể chia sẻ với PCT những suy nghĩ này chăng? :” tôi chỉ thích người ta đọc những gì tôi viết bằng một tâm thức mơ mộng của thi sĩ đãng trí ...
...Bây giờ đây, đối với tôi, danh từ “thiên tài” chỉ là một trò ngu xuẩn, ngu xuẩn như tất cả danh từ cao đẹp hoa mỹ khác. Động từ “sáng tạo” hay danh từ “nghệ sĩ” cũng là ngu xuẩn nốt. Thiên tài, nghệ sĩ, cô đơn, thi sĩ, nổi loạn, hư vô, hiện sinh, triết lý, tất cả đều ngu xuẩn. Càng ngu xuẩn, càng sống với tất cả ngu xuẩn ấy, tôi càng thấy tất cả những ngu xuẩn đều cần thiết trong một giai đoạn để chuẩn bị cho một sự ngu xuẩn lớn nhất: đó là cái chết của tôi, của anh, của em, của tất cả mọi sự trên mặt đất. Sống là ngu xuẩn, chết cũng là ngu xuẩn, thế thì chỉ còn một con đường là ngu xuẩn với ngu xuẩn qua ngu xuẩn trong tất cả ngu xuẩn của mọi sự ngu xuẩn. Đẩy tất cả mọi ngu xuẩn đến ngu xuẩn đầu tiên và cuối cùng: mơ mộng trong khi vẫn mở mắt, cười tất cả mọi sự bi thảm, yêu tất cả những cái gì không có ở tại đây và bây giờ, đùa chơi với tấn trò đùa của thời gian vũ trụ, đóng vở tuồng chèo của đời mình cho đến độ xuất thần ngã ngửa. (Trả lời phỏng vấn, đd)
...Và đây là độc thoại của tôi, của một người không biết nói và khi nói thì chỉ nói một mình để chỉ cho mình nghe... Các ngài còn muốn hỏi nữa không? (Hố Thẳm Tư Tưởng)
Tháng 3. 2011
__________________
(1) http://phamcongthien.com/
(2) http://www.diendan.org/nhung-con-nguoi/pham-cong-thien/
(3) Theo Blog Nguyễn Hưng Quốc, http://hung-viet.org/blog1/2011/03/16/ph%E1%BA%A1m-cong-thi%E1%BB%87n-nha-tuy-but-xu%E1%BA%A5t-s%E1%BA%AF
(4) (T.Vấn- Nhớ đứng chờ ta ở cõi siêu*- 12.03.2011- http://damau.org/archives/18864)
(5) Trả lời phỏng vấn. http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do;jsessionid=22BB903CF12899656FA69776E6B76897?action=viewArtwork&artworkId=12430
(6) http://www.viet-studies.info/NguyenVanTrung_OngPhamCongThien.htm
Sáng tác ca khúc, truyện ngắn và phê bình văn chương của Bùi Công Thuấn. Bạn cũng có thể đọc BCT tại http://yume.vn/buicongthuan
Thứ Tư, 30 tháng 3, 2011
Thứ Ba, 8 tháng 3, 2011
DỊ HƯƠNG, KIẾM SẮC và...
DỊ HƯƠNG, KIẾM SẮC và…
Bùi Công Thuấn
Văn chương là nghệ thuật ngôn từ, là sự sáng tạo cái đẹp bằng ngôn từ, cái đẹp của chính ngôn từ. Yếu tính của nghệ thuật là sự sáng tạo. Phẩm giá, tài năng của nhà văn được xác lập bằng chính sự sáng tạo nghệ thuật của anh ta. Trong nghệ thuật, mọi sự sao chép đều là hàng giả. Nhìn một bức tranh sao chép, tranh giả, dù đường nét màu sắc có tinh vi đến mấy, người xem vẫn thấy bực bội, thất vọng. Khi được nhào nặn trong cùng một khuôn, tất yếu sẽ cho ra đời hai vật thể giống nhau, cái sau mang nguyên vẹn hình hài của cái trước. Một tác phẩm được xây dựng bằng cùng một cách viết với tác phẩm khác, thì dù có được gia công tô vẽ thêm bao nhiêu, nó cũng chỉ là bản nháp của tác phẩm trước đó, nó không mang đến chút thú vị nào cho người đọc, thậm chí nó có thể để lại vết nhơ không tẩy xóa được cho người cầm bút. Nam Cao bảo rằng “ Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có “ (Đời Thừa).
Lẽ ra tôi không nên viết những dòng dưới đây.
DỊ HƯƠNG, KIẾM SẮC, và…
Kiếm Sắc (1988) của Nguyễn Huy Thiệp nói về một Nguyễn Ánh cơ mưu và tàn ác trong công cuộc giành lấy thiên hạ. Mục đích của Nguyễn Huy là “giải thiêng” những định kiến thần thánh hóa mà nhân gian đã gán cho nhân vật lịch sử. Hơn thế, Thiệp dùng nhân vật này để nói về thời đại nhà văn đang sống, nghĩa là cách mượn chuyện xưa để nói những vấn đền hôm nay, một cách nói ám chỉ.
Dị Hương cũng “giải thiêng” Nguyễn Ánh như thế. Đó là một Nguyễn Ánh tầm thường, dâm tục, không phải một bậc anh hùng. Nguyễn Ánh không có một chút cơ mưu nào, không một ý nghĩ đến đại cuộc, không một cử chỉ hành xử trượng phu, trái lại chỉ như một đứa “thảo dân vô học”. Một nguyễn Ánh mà run sợ ngay trong giấc mơ của mình, một Nguyễn Ánh mà khi thấy Ngọc Bình trong bồn tắm thì “ Lòng Ánh nôn nao, không chịu nổi mùi gợi dục, cuống cuồng cởi quần áo. Ánh hấp tấp y như chàng trai mười sáu tuổi lần đầu nhìn thấy thân thể người đẹp trắng nuột nà, nhào vào bồn tắm, làm nước tràn quá nửa”, “Hai người lại chìm vào biển ái ân nóng bỏng. Đang lúc Ánh sướng quá tru lên như con ngựa hoang động đực”.
Vâng, dù tác giả có viết gì thêm nữa cũng chỉ là để “giải thiêng” thần tượng, như Nguyễn Huy Thiệp đã làm trong Kiếm Sắc. Chẳng có cái nhìn nhân văn hay sự cảm thông chia sẻ bi kịch nào ở đây cả (1). Thái độ viết của tác giả Di Hương, cũng như Nguyễn Huy Thiệp không phải là thái độ cảm thông, mà là thái độ đạp đổ thần tượng. Thái độ ấy bộc lộ trong cách gọi tên nhân vật, trong cách gán cho nhân vật những hành vi hạ cấp. Nguyễn Huy Thiệp gọi Nguyễn Ánh bằng tên Ánh trống không, mà không gọi bằng chức danh xã hội . Đó là cách gọi xếch mé theo kiểu người Bắc, khi muốn bày tỏ sự khi miệt, hạ bệ đối tượng. Điều này nằm trong tâm thức Hậu Hiện Đại, đạp đổ những Đại Tự Sự, giải thiêng những tín niệm, hạ bệ những thần tượng. Thâm ý của Nguyễn Huy Thiệp ai cũng rõ, chỉ có điều là không ai nói ra, sợ có khi vạ miệng (!) Nguyễn Huy Thiệp đã đi trước Sương Nguyệt Minh khá xa.
Trong Kiếm Sắc, Nguyễn Huy Thiệp nhấn mạnh cái ý này, mặc dù thấp thoáng, nhưng nó cũng là một chủ đề tư tưởng, ấy là Nguyễn Ánh ghét bọn nho sĩ Bắc Hà. “Ánh bảo :Ta chỉ ghét bọn chữ nghĩa thôi…Chữ nghĩa chúng nó thôi lắm, ngụy biện, xảo trá tinh vi. Hành tung chúng, ta chẳng lo. Toàn lũ ốm o, như dòi chồn hèn mọn cả. Lân bảo : Đa số như thế, chôn cũng đáng, chỉ có đôi người khá, chúa công được họ thì thêm sang cho chúa công. Ánh bảo :Ta không tin bọn nó theo ta. Chúng nó quen tỉ tê chữ nghĩa thì sẽ coi ta là vô đạo, không có tâm thế. Rửa đầu óc chúng mệt lắm “ Những câu văn này không phải Nguyễn Huy Thiệp dùng để nói về Nguyễn Ánh mà nói về thời đại ông đang sống. Chữ nghĩa nho sĩ Bắc Hà thật thâm hiểm. Bảo sao Ánh không căm ghét!
Trong Dị Hương, tác giả cũng lặp lại tư tưởng này. “ ánh rất ghét bọn hủ nho làm thơ. Chúng thường xúm vào tâng bốc, ngợi ca Ánh như một bậc kỳ tài trong thiên hạ chí lớn ngùn ngụt”. Ánh tin dùng Sán, vì “kho tàng tri thức Nho học của Sán đã giúp Nguyễn Ánh được cái danh thâm sâu, khỏi tiếng võ biền, mà cánh sĩ phu Bắc Hà cao ngạo thường mỉm cười coi rẻ”. Chỗ khác biệt là ngôn ngữ Nguyễn Huy Thiệp tầng tầng lớp lớp nghĩa, còn câu văn tác giả Dị Hương thì thẳng đuột chỉ có một nghĩa tường minh, vì thế bút lực của Nguyễn Huy Thiệp mạnh mẽ bao nhiêu thì bút lực của tác giả Dị Hương èo ọt bấy nhiêu.
Trở lại với cách kể chuyện của Kiếm Sắc và Dị Hương, người đọc dễ dàng nhận ra Dị Hương lặp lại khuôn mẫu này ở Kiếm Sắc:
Mở đầu Kiếm sắc, Nguyễn Huy Thiệp viết về nhân vật Đặng Phú Lân thế này :”Trong số những người gần gũi với thế tổ Nguyễn Phúc Ánh những năm mưu phục lại cơ đồ nhà Nguyễn có một hào kiệt mà không sử sách nào nhắc đến. Người đó là Đặng Phú Lân”.Ấy là Nguyễn Huy Thiệp bảo, Lân chỉ là một nhân vật hư cấu thôi. Và Kiếm Sắc là kiểu truyện hư cấu.Đừng tin những gì Thiệp viết là thật. Dị Hương cũng viết về nhân vật Trần Huy Sán như vậy :”Dưới trướng Ánh có một nhân vật rất kỳ dị chỉ thấy chép trong dã sử. Y tên là Trần Huy Sán”. Sán cũng chỉ là một nhân vật hư cấu, cho phép nhà văn tha hồ bịa đặt những gì muốn bịa đặt, để nói cái điều mình muốn ám chỉ. Sao lại có sự giống nhau kỳ lạ đến vậy trong cách giới thiệu nhân vật và kiểu nhân vật giữa hai tác phẩm ? Từ đây Trần Huy Sán được xây dựng cùng một số phận với Đặng Phú Lân, nghĩa là, cả hai cùng tận tụy phục vụ Nguyễn Ánh, cả hai cùng dự cảm về cái chết của mình dưới tay Ánh, và sau cùng và cùng bị Ánh chém Đầu.
Trên cái khuôn của Kiếm Sắc, Di Hương đã triển khai câu chuyện giống Kiếm Sắc đến cả những tình tiết. Về hình tượng chủ đề, Nguyễn Huy Thiệp tập trung vào thanh kiếm gia truyền của Đặng Phú Lân, để thể hiện cái tư tưởng, kẻ dùng gươm sẽ chết vì chính thanh gươm của mình. Đó là một oan nghiệt ; còn Dị Hương tập trung vào hình ảnh chiếc yếm có mùi hương lạ của Trần Huy Sán. Dị Hương muốn nói điều này, những kẻ võ biền thô bạo như Ánh thì không thể chiếm được hương thơm thanh khiết của châu ngọc tinh thần Bắc Hà, dù anh ta có bao nhiêu sức mạnh bạo lực.”Cái yếm thắm vụt khỏi tay Ánh chấp chới lượn đi lượn lại rồi thăng thiên”. May mà, nhờ hai hình tượng này khác nhau nên chủ đề của Dị Hương có khác đôi chút với Kiếm Sắc. Nhưng ở bề sâu tư tưởng của hai tác phẩm thì vẫn giống nhau. Đối với kẻ sĩ Bắc Hà, những kẻ võ biền thô bạo, gian hiểm, dâm tục không thu phục họ được. Chỉ có một cách là tiêu diệt họ, như Nguyễn Ánh đã giết Đặng Phú Lân hay Trần Huy Sán.
Kiếm Sắc miêu tả cái chết của Lân như sau : khi Ánh chém đầu lân thì “máu phun ra không đỏ mà trắng như nhựa cây, một lúc sau thì bết lại”. Một cái chết kỳ lạ. Dị Hương cũng kể rằng :’Sán vươn cổ cò ra như thách thức. Một chớp sáng ngoằn ngoèo như sét đánh giữa trời quang mây tạnh. Lần này Ánh chém thật. Cái “chõ xôi”lăn lông lốc rồi dừng lại, mắt Sán hấp háy, miệng nhếch mép cười cợt. Bỗng dưng , mùi dị hương ở đâu đó ào ạt xông lên, rồi mất hẳn”, cũng là một cái chết kỳ lạ, không khác gì cái chết của Lân trong Kiếm Sắc. Trong suốt truyện, Di Hương bắt chước Kiếm Sắc trong việc tô vẽ những chi tiết kỳ dị hoang đường thường thấy trong cách kể truyện duy tâm dân gian, trong kiểu chí quái chí dị, truyện truyền kỳ (Truyền Kỳ Mạn Lục, Liêu Trai Chí Dị). Nhưng nếu ở Kiếm Sắc đó là cái mới, là sự sáng tạo, thì ở Dị Hương đó là bản sao vụng về. Bởi khi Kiếm Sắc ra đời, văn chương Việt Nam vẫn còn đang được viết bằng bút pháp của Chủ Nghĩa Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa. Mọi điều miêu tả trong tác phẩm giống y như ngoài đời, như thể “Áo anh rách vai/ quần tôi có vài mảnh vá”; còn Nguyễn Huy Thiệp thì đã quyết liệttừ bỏ Chủ Nghĩa Hiện Thực XHCN rồi. Anh đang mày mò những kiểu bút pháp khác.
Lại thấy điều này. Phần đầu Kiếm Sắc có bài hát của Vinh Hoa. Cuối truyện có bài hát của cô gái chủ quán. Bài hát được dùng để tạo màu sắc thẩm mỹ và nhấn mạnh chủ đề. Bài hát này cũng chứa đựng ý nghĩa tư tưởng làm cho Kiếm Sắc trở nên sâu sắc, thú vị . Dị Hương cũng dùng kỹ thuật này. Ngay sau phần mở đầu là câu hát của bọn trẻ chăn trâu thả ra khắp triền sông. Những câu hát này được lặp lại nhiều lần trong suốt truyện để tô đậm chủ đề. Tuy nhiên, những câu hát trong Dị Hương không tạo được màu sắc thẩm mỹ-tư tưởng. Đơn thuần nó chỉ là dấu chỉ đường để người đọc lưu ý chủ đề về Dị Hương mà thôi. Dị Hương đã không học được nghề của Kiếm Sắc
Câu văn của Nguyễn Huy Thiệp nói chung và trong Kiếm Sắc nói riêng có đặc trưng tạo nên phong cách nghệ thuật của anh. Câu văn tạo nên một lối kể chuyện, khắc tạc được cốt cách nhân vật, mở ra một một thế giới nghệ thuật mà trước Nguyễn Huy Thiệp chưa có, để rồi, sau Nguyển Huy Thiệp, nhiếu người đã bắt chước cách viết ấy. Đó là những câu văn trần trụi, băm bổ, nhưng lại chứa đựng một bút lực thật mãnh liệt, và một thâm ý văn chương sâu xa. Xin đọc Kiếm Sắc :”Lân gặp Ánh. Ánh thấy Lân khôi ngô, ăn nói khoan hòa mà thủ đoạn táo bạo thì thích lắm, cho ở luôn bên mình. Một lần thuyền Ánh qua cửa Tiền Giang, có bốn người đi theo, trong đó có Lân. Bấy giờ có con cá sấu rất to cứ bơi theo, đuổi thế nào cũng không được. Mọi người lo sợ, thấy phải có người nhảy xuống làm mồi cho cá sấu thì mới thoát. Ánh hỏi : Ai vì nước Việt mà chết ? Ba người kia tình nguyện chết, chỉ có Lân ngồi im. Ánh trừng mắt hỏi Lân: Trượng phu quý mạng sống thế à? Lân chắp tay : Chúa công đừng giận. Nước Việt thì không ai hại được. Còn thoát hàm cá sấu, cần gì phí một mạng người! Nói rồi nhặt hòn đá ở mạn thuyền ném con vịt giời bay qua. Vịt giời rơi xuống nước, cá sấu thấy vậy vội bỏ thuyền lao đến chỗ vịt giời. Ánh cười ha hả bảo rằng: Thế này thì nghiệp ta thế nào Trời cũng cho thành”. Đó là một đoạn văn chứa đựng được đặc sắc câu văn, cách kể chuyện, cách xây dựng nhân vật và những ngụ ý thâm trầm, ma mị và tài hoa của Nguyễn Huy Thiệp trong Kiếm Sắc.
Dị Hương cũng dùng cách kể như vậy, kiểu câu văn như vậy, giọng điệu như vậy, nhưng hơi văn bạc nhược, tình ý hời hợt, chất thẩm mỹ nhạt nhòa, không sao thoát được ảnh hưởng Nguyễn Huy Thiệp, không hiển lộ ra được phong cách nghệ thuật riêng của tác giả. Xin đọc:
“Nửa đêm về sáng, Ngọc Bình mệt quá, mềm oặt, nằm không động đậy, như con cá chuối chết ươn. Ánh nhìn thân thể ngọc ngà đang có chiều trắng bệch, xót xa, bảo:
“Có phải ta ham quá làm nàng đau và mệt mỏi?”.
“Không! Tự nhiên thần thiếp thấy mình trống rỗng. Lúc đầu ân ái đam mê cuồng nhiệt bao nhiêu thì sau đó lãnh cảm bấy nhiêu”.
Ánh thở dài. Lại nghĩ: Ngọc Bình nhìn long sàng, thuyền rồng mà nhớ nhung Quang Toản trong lúc ái ân. Đang khi tranh tối tranh sáng, Ánh kêu quân hầu mang võng tía lên sườn núi tìm cây giăng mắc. Ánh bế Ngọc Bình đi lên theo. Sương đêm lành lạnh bay mỏng nhẹ như màn buông. Gió sông vẫn thổi không dứt quằn quặn. Gai người.
Đại giám quân Lê Văn Duyệt thức khuya, mệt phờ phạc ra sức can ngăn:
“Chúa vương hãy giữ mình rồng. Trước đây bôn tẩu gặp đâu ngủ đấy, cùng đường chạy giặc cỏ thì không nói làm gì. Nay đã có kinh kỳ Phú Xuân vàng son lộng lẫy, chúa vương nên về long sàng mà ngủ. Sao người cứ phải vui thú dập dạ trên cỏ cây như lối bọn thợ sơn tràng hạ dân”.
Ánh đang ẵm mỹ nhân, tức giận quá một tay quắp nàng một tay chỉ vào mặt Duyệt:
“Sao đế vương khổ thế!? Ta muốn sống như một người dân bình thường không được ư? Chả lẽ cái việc ngủ với gái mà còn phải hoãn cơn động cỡn lại chờ về nơi lầu son gác tía? Ta là chúa vương tối cao, ta thích sang trọng sẽ được sang trọng, ta muốn dân dã, lấm láp là được lấm láp. Ta không bằng một thợ cày sao? Đêm nay ta muốn ngủ với nàng trên cỏ cây như một thảo dân vô học”.
Mắng xong, Ánh bế phắt mỹ nhân đi như chạy. Bọn Lê Văn Duyệt không dám kêu can nữa. »
Tôi đã trích một đoạn khá dài, nhưng không thể tìm thấy bóng hình tác giả ở đâu trong đoạn văn ấy. Hồn cốt không thăng hoa lên được.
Như vậy, khi xem xét các yếu tố của cấu trúc tác phẩm, tôi thấy Dị Hương sao chép cách viết của Kiếm Sắc. Đó thật là điều đáng tiếc trong sáng tạo nghệ thuật, cũng thật là đáng thương cho một cây bút chưa đủ sức đi bằng chính đôi chân của mình. (Tôi xin lỗi nếu điều tôi nói làm buồn lòng tác giả và những ai thích Dị Hương). Xin lưu ý rằng, tôi không có ý nói Dị Hương giống Kiếm Sắc về nội dung. Cũng không nói rằng Dị Hương không hay. Nhưng cần nhìn rõ rằng, Dị Hương không đem đến cho văn chương đương đại điều gì mới trong nghệ thuật viết truyện ngắn, điều mà Kiếm Sắc đã làm được những năm đầu đổi mới.
DỊ HƯƠNG, KIẾM SẮC, và…
Việc trao giải cho Dị Hương là thẩm quyền của ban tổ chức giải. Mỗi cuộc thi đều có những tiêu chí nhất định và ban giám khảo căn cứ vào tiêu chí đó để đánh giá và trao giải. Đó là quyền và trách nhiệm của họ. Quần chúng nếu có tham gia ý kiến thì vẫn chỉ là người ngoài cuộc. Tuy vậy, có điều này cần phải ngẫm nghĩ. Đã có những cách đọc khác nhau về Dị Hương, gây nên những tranh cãi về những vấn đề bên ngoài văn chương. Ít có người chú ý đến đặc điểm kiểu truyện hư cấu của Dị Hương để khám phá từ trong bản chất sáng tạo của nhà văn. Và dường như, trong tiêu chí của cuộc thi truyện cũng không có tiêu chí về sự sáng tạo? Nếu vậy, mọi tranh cãi sẽ chẳng mang đến lợi ích gì cho văn chương cả.
Không phải chỉ có Dị Hương mới sao chép cách viết. Cả Đất Trời Vần Vũ, một tác phẩm đạt giải khác cũng vậy, tác giả cũng sao chép cách viết từ nhiều nguồn, mà đậm nhất là cách viết của Lời Nguyền Hai Trăm Năm (1). Tôi trộm nghĩ rằng, một giải văn chương chỉ nên trao cho tác phẩm có sáng tạo nghệ thuật. Bởi sự sao chép, dù ở góc độ hay yếu tố nào, cũng không phải là sáng tạo, cũng đồng nghĩa không phải là nghệ thuật.
Tháng 3.2011
_________________________________________
(1) Nguyễn Trọng Bình - Góp thêm một cái nhìn về truyện ngắn Dị Hương của Sương Nguyệt Minh
http://www.phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=12249
(2) CHUYỆN CỦA NHỮNG KẺ CHƠI DAO. BCT đọc Đất Trời Vần Vũ của Nguyễn Một
http://www.phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=9181
Bùi Công Thuấn
Văn chương là nghệ thuật ngôn từ, là sự sáng tạo cái đẹp bằng ngôn từ, cái đẹp của chính ngôn từ. Yếu tính của nghệ thuật là sự sáng tạo. Phẩm giá, tài năng của nhà văn được xác lập bằng chính sự sáng tạo nghệ thuật của anh ta. Trong nghệ thuật, mọi sự sao chép đều là hàng giả. Nhìn một bức tranh sao chép, tranh giả, dù đường nét màu sắc có tinh vi đến mấy, người xem vẫn thấy bực bội, thất vọng. Khi được nhào nặn trong cùng một khuôn, tất yếu sẽ cho ra đời hai vật thể giống nhau, cái sau mang nguyên vẹn hình hài của cái trước. Một tác phẩm được xây dựng bằng cùng một cách viết với tác phẩm khác, thì dù có được gia công tô vẽ thêm bao nhiêu, nó cũng chỉ là bản nháp của tác phẩm trước đó, nó không mang đến chút thú vị nào cho người đọc, thậm chí nó có thể để lại vết nhơ không tẩy xóa được cho người cầm bút. Nam Cao bảo rằng “ Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có “ (Đời Thừa).
Lẽ ra tôi không nên viết những dòng dưới đây.
DỊ HƯƠNG, KIẾM SẮC, và…
Kiếm Sắc (1988) của Nguyễn Huy Thiệp nói về một Nguyễn Ánh cơ mưu và tàn ác trong công cuộc giành lấy thiên hạ. Mục đích của Nguyễn Huy là “giải thiêng” những định kiến thần thánh hóa mà nhân gian đã gán cho nhân vật lịch sử. Hơn thế, Thiệp dùng nhân vật này để nói về thời đại nhà văn đang sống, nghĩa là cách mượn chuyện xưa để nói những vấn đền hôm nay, một cách nói ám chỉ.
Dị Hương cũng “giải thiêng” Nguyễn Ánh như thế. Đó là một Nguyễn Ánh tầm thường, dâm tục, không phải một bậc anh hùng. Nguyễn Ánh không có một chút cơ mưu nào, không một ý nghĩ đến đại cuộc, không một cử chỉ hành xử trượng phu, trái lại chỉ như một đứa “thảo dân vô học”. Một nguyễn Ánh mà run sợ ngay trong giấc mơ của mình, một Nguyễn Ánh mà khi thấy Ngọc Bình trong bồn tắm thì “ Lòng Ánh nôn nao, không chịu nổi mùi gợi dục, cuống cuồng cởi quần áo. Ánh hấp tấp y như chàng trai mười sáu tuổi lần đầu nhìn thấy thân thể người đẹp trắng nuột nà, nhào vào bồn tắm, làm nước tràn quá nửa”, “Hai người lại chìm vào biển ái ân nóng bỏng. Đang lúc Ánh sướng quá tru lên như con ngựa hoang động đực”.
Vâng, dù tác giả có viết gì thêm nữa cũng chỉ là để “giải thiêng” thần tượng, như Nguyễn Huy Thiệp đã làm trong Kiếm Sắc. Chẳng có cái nhìn nhân văn hay sự cảm thông chia sẻ bi kịch nào ở đây cả (1). Thái độ viết của tác giả Di Hương, cũng như Nguyễn Huy Thiệp không phải là thái độ cảm thông, mà là thái độ đạp đổ thần tượng. Thái độ ấy bộc lộ trong cách gọi tên nhân vật, trong cách gán cho nhân vật những hành vi hạ cấp. Nguyễn Huy Thiệp gọi Nguyễn Ánh bằng tên Ánh trống không, mà không gọi bằng chức danh xã hội . Đó là cách gọi xếch mé theo kiểu người Bắc, khi muốn bày tỏ sự khi miệt, hạ bệ đối tượng. Điều này nằm trong tâm thức Hậu Hiện Đại, đạp đổ những Đại Tự Sự, giải thiêng những tín niệm, hạ bệ những thần tượng. Thâm ý của Nguyễn Huy Thiệp ai cũng rõ, chỉ có điều là không ai nói ra, sợ có khi vạ miệng (!) Nguyễn Huy Thiệp đã đi trước Sương Nguyệt Minh khá xa.
Trong Kiếm Sắc, Nguyễn Huy Thiệp nhấn mạnh cái ý này, mặc dù thấp thoáng, nhưng nó cũng là một chủ đề tư tưởng, ấy là Nguyễn Ánh ghét bọn nho sĩ Bắc Hà. “Ánh bảo :Ta chỉ ghét bọn chữ nghĩa thôi…Chữ nghĩa chúng nó thôi lắm, ngụy biện, xảo trá tinh vi. Hành tung chúng, ta chẳng lo. Toàn lũ ốm o, như dòi chồn hèn mọn cả. Lân bảo : Đa số như thế, chôn cũng đáng, chỉ có đôi người khá, chúa công được họ thì thêm sang cho chúa công. Ánh bảo :Ta không tin bọn nó theo ta. Chúng nó quen tỉ tê chữ nghĩa thì sẽ coi ta là vô đạo, không có tâm thế. Rửa đầu óc chúng mệt lắm “ Những câu văn này không phải Nguyễn Huy Thiệp dùng để nói về Nguyễn Ánh mà nói về thời đại ông đang sống. Chữ nghĩa nho sĩ Bắc Hà thật thâm hiểm. Bảo sao Ánh không căm ghét!
Trong Dị Hương, tác giả cũng lặp lại tư tưởng này. “ ánh rất ghét bọn hủ nho làm thơ. Chúng thường xúm vào tâng bốc, ngợi ca Ánh như một bậc kỳ tài trong thiên hạ chí lớn ngùn ngụt”. Ánh tin dùng Sán, vì “kho tàng tri thức Nho học của Sán đã giúp Nguyễn Ánh được cái danh thâm sâu, khỏi tiếng võ biền, mà cánh sĩ phu Bắc Hà cao ngạo thường mỉm cười coi rẻ”. Chỗ khác biệt là ngôn ngữ Nguyễn Huy Thiệp tầng tầng lớp lớp nghĩa, còn câu văn tác giả Dị Hương thì thẳng đuột chỉ có một nghĩa tường minh, vì thế bút lực của Nguyễn Huy Thiệp mạnh mẽ bao nhiêu thì bút lực của tác giả Dị Hương èo ọt bấy nhiêu.
Trở lại với cách kể chuyện của Kiếm Sắc và Dị Hương, người đọc dễ dàng nhận ra Dị Hương lặp lại khuôn mẫu này ở Kiếm Sắc:
Mở đầu Kiếm sắc, Nguyễn Huy Thiệp viết về nhân vật Đặng Phú Lân thế này :”Trong số những người gần gũi với thế tổ Nguyễn Phúc Ánh những năm mưu phục lại cơ đồ nhà Nguyễn có một hào kiệt mà không sử sách nào nhắc đến. Người đó là Đặng Phú Lân”.Ấy là Nguyễn Huy Thiệp bảo, Lân chỉ là một nhân vật hư cấu thôi. Và Kiếm Sắc là kiểu truyện hư cấu.Đừng tin những gì Thiệp viết là thật. Dị Hương cũng viết về nhân vật Trần Huy Sán như vậy :”Dưới trướng Ánh có một nhân vật rất kỳ dị chỉ thấy chép trong dã sử. Y tên là Trần Huy Sán”. Sán cũng chỉ là một nhân vật hư cấu, cho phép nhà văn tha hồ bịa đặt những gì muốn bịa đặt, để nói cái điều mình muốn ám chỉ. Sao lại có sự giống nhau kỳ lạ đến vậy trong cách giới thiệu nhân vật và kiểu nhân vật giữa hai tác phẩm ? Từ đây Trần Huy Sán được xây dựng cùng một số phận với Đặng Phú Lân, nghĩa là, cả hai cùng tận tụy phục vụ Nguyễn Ánh, cả hai cùng dự cảm về cái chết của mình dưới tay Ánh, và sau cùng và cùng bị Ánh chém Đầu.
Trên cái khuôn của Kiếm Sắc, Di Hương đã triển khai câu chuyện giống Kiếm Sắc đến cả những tình tiết. Về hình tượng chủ đề, Nguyễn Huy Thiệp tập trung vào thanh kiếm gia truyền của Đặng Phú Lân, để thể hiện cái tư tưởng, kẻ dùng gươm sẽ chết vì chính thanh gươm của mình. Đó là một oan nghiệt ; còn Dị Hương tập trung vào hình ảnh chiếc yếm có mùi hương lạ của Trần Huy Sán. Dị Hương muốn nói điều này, những kẻ võ biền thô bạo như Ánh thì không thể chiếm được hương thơm thanh khiết của châu ngọc tinh thần Bắc Hà, dù anh ta có bao nhiêu sức mạnh bạo lực.”Cái yếm thắm vụt khỏi tay Ánh chấp chới lượn đi lượn lại rồi thăng thiên”. May mà, nhờ hai hình tượng này khác nhau nên chủ đề của Dị Hương có khác đôi chút với Kiếm Sắc. Nhưng ở bề sâu tư tưởng của hai tác phẩm thì vẫn giống nhau. Đối với kẻ sĩ Bắc Hà, những kẻ võ biền thô bạo, gian hiểm, dâm tục không thu phục họ được. Chỉ có một cách là tiêu diệt họ, như Nguyễn Ánh đã giết Đặng Phú Lân hay Trần Huy Sán.
Kiếm Sắc miêu tả cái chết của Lân như sau : khi Ánh chém đầu lân thì “máu phun ra không đỏ mà trắng như nhựa cây, một lúc sau thì bết lại”. Một cái chết kỳ lạ. Dị Hương cũng kể rằng :’Sán vươn cổ cò ra như thách thức. Một chớp sáng ngoằn ngoèo như sét đánh giữa trời quang mây tạnh. Lần này Ánh chém thật. Cái “chõ xôi”lăn lông lốc rồi dừng lại, mắt Sán hấp háy, miệng nhếch mép cười cợt. Bỗng dưng , mùi dị hương ở đâu đó ào ạt xông lên, rồi mất hẳn”, cũng là một cái chết kỳ lạ, không khác gì cái chết của Lân trong Kiếm Sắc. Trong suốt truyện, Di Hương bắt chước Kiếm Sắc trong việc tô vẽ những chi tiết kỳ dị hoang đường thường thấy trong cách kể truyện duy tâm dân gian, trong kiểu chí quái chí dị, truyện truyền kỳ (Truyền Kỳ Mạn Lục, Liêu Trai Chí Dị). Nhưng nếu ở Kiếm Sắc đó là cái mới, là sự sáng tạo, thì ở Dị Hương đó là bản sao vụng về. Bởi khi Kiếm Sắc ra đời, văn chương Việt Nam vẫn còn đang được viết bằng bút pháp của Chủ Nghĩa Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa. Mọi điều miêu tả trong tác phẩm giống y như ngoài đời, như thể “Áo anh rách vai/ quần tôi có vài mảnh vá”; còn Nguyễn Huy Thiệp thì đã quyết liệttừ bỏ Chủ Nghĩa Hiện Thực XHCN rồi. Anh đang mày mò những kiểu bút pháp khác.
Lại thấy điều này. Phần đầu Kiếm Sắc có bài hát của Vinh Hoa. Cuối truyện có bài hát của cô gái chủ quán. Bài hát được dùng để tạo màu sắc thẩm mỹ và nhấn mạnh chủ đề. Bài hát này cũng chứa đựng ý nghĩa tư tưởng làm cho Kiếm Sắc trở nên sâu sắc, thú vị . Dị Hương cũng dùng kỹ thuật này. Ngay sau phần mở đầu là câu hát của bọn trẻ chăn trâu thả ra khắp triền sông. Những câu hát này được lặp lại nhiều lần trong suốt truyện để tô đậm chủ đề. Tuy nhiên, những câu hát trong Dị Hương không tạo được màu sắc thẩm mỹ-tư tưởng. Đơn thuần nó chỉ là dấu chỉ đường để người đọc lưu ý chủ đề về Dị Hương mà thôi. Dị Hương đã không học được nghề của Kiếm Sắc
Câu văn của Nguyễn Huy Thiệp nói chung và trong Kiếm Sắc nói riêng có đặc trưng tạo nên phong cách nghệ thuật của anh. Câu văn tạo nên một lối kể chuyện, khắc tạc được cốt cách nhân vật, mở ra một một thế giới nghệ thuật mà trước Nguyễn Huy Thiệp chưa có, để rồi, sau Nguyển Huy Thiệp, nhiếu người đã bắt chước cách viết ấy. Đó là những câu văn trần trụi, băm bổ, nhưng lại chứa đựng một bút lực thật mãnh liệt, và một thâm ý văn chương sâu xa. Xin đọc Kiếm Sắc :”Lân gặp Ánh. Ánh thấy Lân khôi ngô, ăn nói khoan hòa mà thủ đoạn táo bạo thì thích lắm, cho ở luôn bên mình. Một lần thuyền Ánh qua cửa Tiền Giang, có bốn người đi theo, trong đó có Lân. Bấy giờ có con cá sấu rất to cứ bơi theo, đuổi thế nào cũng không được. Mọi người lo sợ, thấy phải có người nhảy xuống làm mồi cho cá sấu thì mới thoát. Ánh hỏi : Ai vì nước Việt mà chết ? Ba người kia tình nguyện chết, chỉ có Lân ngồi im. Ánh trừng mắt hỏi Lân: Trượng phu quý mạng sống thế à? Lân chắp tay : Chúa công đừng giận. Nước Việt thì không ai hại được. Còn thoát hàm cá sấu, cần gì phí một mạng người! Nói rồi nhặt hòn đá ở mạn thuyền ném con vịt giời bay qua. Vịt giời rơi xuống nước, cá sấu thấy vậy vội bỏ thuyền lao đến chỗ vịt giời. Ánh cười ha hả bảo rằng: Thế này thì nghiệp ta thế nào Trời cũng cho thành”. Đó là một đoạn văn chứa đựng được đặc sắc câu văn, cách kể chuyện, cách xây dựng nhân vật và những ngụ ý thâm trầm, ma mị và tài hoa của Nguyễn Huy Thiệp trong Kiếm Sắc.
Dị Hương cũng dùng cách kể như vậy, kiểu câu văn như vậy, giọng điệu như vậy, nhưng hơi văn bạc nhược, tình ý hời hợt, chất thẩm mỹ nhạt nhòa, không sao thoát được ảnh hưởng Nguyễn Huy Thiệp, không hiển lộ ra được phong cách nghệ thuật riêng của tác giả. Xin đọc:
“Nửa đêm về sáng, Ngọc Bình mệt quá, mềm oặt, nằm không động đậy, như con cá chuối chết ươn. Ánh nhìn thân thể ngọc ngà đang có chiều trắng bệch, xót xa, bảo:
“Có phải ta ham quá làm nàng đau và mệt mỏi?”.
“Không! Tự nhiên thần thiếp thấy mình trống rỗng. Lúc đầu ân ái đam mê cuồng nhiệt bao nhiêu thì sau đó lãnh cảm bấy nhiêu”.
Ánh thở dài. Lại nghĩ: Ngọc Bình nhìn long sàng, thuyền rồng mà nhớ nhung Quang Toản trong lúc ái ân. Đang khi tranh tối tranh sáng, Ánh kêu quân hầu mang võng tía lên sườn núi tìm cây giăng mắc. Ánh bế Ngọc Bình đi lên theo. Sương đêm lành lạnh bay mỏng nhẹ như màn buông. Gió sông vẫn thổi không dứt quằn quặn. Gai người.
Đại giám quân Lê Văn Duyệt thức khuya, mệt phờ phạc ra sức can ngăn:
“Chúa vương hãy giữ mình rồng. Trước đây bôn tẩu gặp đâu ngủ đấy, cùng đường chạy giặc cỏ thì không nói làm gì. Nay đã có kinh kỳ Phú Xuân vàng son lộng lẫy, chúa vương nên về long sàng mà ngủ. Sao người cứ phải vui thú dập dạ trên cỏ cây như lối bọn thợ sơn tràng hạ dân”.
Ánh đang ẵm mỹ nhân, tức giận quá một tay quắp nàng một tay chỉ vào mặt Duyệt:
“Sao đế vương khổ thế!? Ta muốn sống như một người dân bình thường không được ư? Chả lẽ cái việc ngủ với gái mà còn phải hoãn cơn động cỡn lại chờ về nơi lầu son gác tía? Ta là chúa vương tối cao, ta thích sang trọng sẽ được sang trọng, ta muốn dân dã, lấm láp là được lấm láp. Ta không bằng một thợ cày sao? Đêm nay ta muốn ngủ với nàng trên cỏ cây như một thảo dân vô học”.
Mắng xong, Ánh bế phắt mỹ nhân đi như chạy. Bọn Lê Văn Duyệt không dám kêu can nữa. »
Tôi đã trích một đoạn khá dài, nhưng không thể tìm thấy bóng hình tác giả ở đâu trong đoạn văn ấy. Hồn cốt không thăng hoa lên được.
Như vậy, khi xem xét các yếu tố của cấu trúc tác phẩm, tôi thấy Dị Hương sao chép cách viết của Kiếm Sắc. Đó thật là điều đáng tiếc trong sáng tạo nghệ thuật, cũng thật là đáng thương cho một cây bút chưa đủ sức đi bằng chính đôi chân của mình. (Tôi xin lỗi nếu điều tôi nói làm buồn lòng tác giả và những ai thích Dị Hương). Xin lưu ý rằng, tôi không có ý nói Dị Hương giống Kiếm Sắc về nội dung. Cũng không nói rằng Dị Hương không hay. Nhưng cần nhìn rõ rằng, Dị Hương không đem đến cho văn chương đương đại điều gì mới trong nghệ thuật viết truyện ngắn, điều mà Kiếm Sắc đã làm được những năm đầu đổi mới.
DỊ HƯƠNG, KIẾM SẮC, và…
Việc trao giải cho Dị Hương là thẩm quyền của ban tổ chức giải. Mỗi cuộc thi đều có những tiêu chí nhất định và ban giám khảo căn cứ vào tiêu chí đó để đánh giá và trao giải. Đó là quyền và trách nhiệm của họ. Quần chúng nếu có tham gia ý kiến thì vẫn chỉ là người ngoài cuộc. Tuy vậy, có điều này cần phải ngẫm nghĩ. Đã có những cách đọc khác nhau về Dị Hương, gây nên những tranh cãi về những vấn đề bên ngoài văn chương. Ít có người chú ý đến đặc điểm kiểu truyện hư cấu của Dị Hương để khám phá từ trong bản chất sáng tạo của nhà văn. Và dường như, trong tiêu chí của cuộc thi truyện cũng không có tiêu chí về sự sáng tạo? Nếu vậy, mọi tranh cãi sẽ chẳng mang đến lợi ích gì cho văn chương cả.
Không phải chỉ có Dị Hương mới sao chép cách viết. Cả Đất Trời Vần Vũ, một tác phẩm đạt giải khác cũng vậy, tác giả cũng sao chép cách viết từ nhiều nguồn, mà đậm nhất là cách viết của Lời Nguyền Hai Trăm Năm (1). Tôi trộm nghĩ rằng, một giải văn chương chỉ nên trao cho tác phẩm có sáng tạo nghệ thuật. Bởi sự sao chép, dù ở góc độ hay yếu tố nào, cũng không phải là sáng tạo, cũng đồng nghĩa không phải là nghệ thuật.
Tháng 3.2011
_________________________________________
(1) Nguyễn Trọng Bình - Góp thêm một cái nhìn về truyện ngắn Dị Hương của Sương Nguyệt Minh
http://www.phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=12249
(2) CHUYỆN CỦA NHỮNG KẺ CHƠI DAO. BCT đọc Đất Trời Vần Vũ của Nguyễn Một
http://www.phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=9181
Chủ Nhật, 6 tháng 3, 2011
SONG SONG NHỮNG PHẬN NGƯỜI
Bùi Công Thuấn đọc văn trẻ
SONG SONG NHỮNG PHẬN NGƯỜI
(tiểu thuyết Song Song của Vũ Đình Giang. Nxb Văn Nghệ 2007)
Song Song là câu chuyện của những người đồng tính. Kết thúc truyện, tác giả viết “Đừng hồ nghi trí tưởng tượng, hãy tiếp tục suy diễn đi. Tôi khuyến khích sự suy diễn...Trò bịp nào cũng khởi đi từ một cội nguồn khốn khổ...Ngày 1 tháng Tư, bạn nhớ không... Cả thế giới thừa biết đó là ngày gì”(tr. 319) .Vâng, như vậy là đã rõ. Song Song chỉ là một trò bịp của ngày cá tháng tư. Nói một cách khác, đó chỉ là truyện hư cấu, truyện bịa đặt của trí tưởng tượng. Vì thế người đọc không cần bận tâm đến những gì nhà văn miêu tả, cũng không cần phải xét xem trong thực tế có những con người và những câu chuyện như thế không, bởi Vũ Đình Giang (VĐG) chủ trương “Văn chương là nghệ thuật của hư cấu, hướng vào những khai phá mang tính mới lạ và khác biệt”...” Tôi luôn quan niệm, viết là sáng tạo nên cuộc sống. Thế giới hiện ra dưới ngòi bút của nhà văn là những con người và cuộc đời khác biệt, mới mẻ, thú vị như chưa từng được biết”(1).Vấn đề là qua tác phẩm, nhà văn nói gì và tiếng nói nghệ thuật của anh ta có gì mới mẻ, đặc sắc hay không !
Nhà văn Phong Điệp cho rằng :” Với Song Song, tác giả đã thể hiện bản lĩnh sáng tạo của mình. ... Xác lập một dấu ấn riêng, không trộn lẫn - cá tính, khác lạ - đó những điều Vũ Đình Giang đã và đang làm trong hành trình văn chương của mình…”(2). Nhà văn Bích Ngân thì nhận xét : “Với Song Song, Vũ Đình Giang đã giải tỏa cơn dằn vặt của ý thức. Giang và một vài người viết trẻ khác, đã không chấp nhận lối viết giống với những gì đã có, không trượt theo đường mòn quen thuộc, không viết theo xu hướng thỏa hiệp với chính mình. Giang viết trong khát vọng muốn tìm kiếm những giá trị mới cho văn học trong xu thế mới. ” (tr.325).
Vậy thì, “bản lĩnh sáng tạo, dấu ấn riêng, khát vọng tìm kiếm những giá trị mới cho văn học” của Vũ Đình Giang là gì?
Xin hãy nghe VĐG trình bày : “Sở thích của tôi là hành hạ các nhân vật của mình, bằng cách ném chúng vào những trường hợp gian khó, quá trình chúng quẫy đạp tìm cách thoát hoặc tự huỷ hoại, cũng là lúc chúng thách thức ngược lại tôi. Giải quyết xong vấn đề của nhân vật là mọi khó khăn chấm dứt. Có thấm mệt đôi chút nhưng tôi dễ dàng sa ngay vào những trò nhảm nhí hấp dẫn khác, nhờ thế tôi bắt đầu sáng tác mới. Thú thật, tôi là người chỉ thích mổ xẻ nội tâm phức tạp của con người trên trang viết, ngoài đời tôi lảng tránh mọi kiểu đau khổ dù nó cố lao vào.”(3)
Kỹ thuật viết của VĐG có gì đặc biệt ? -” Ở cuốn Song Song, tôi thử tách - nhập nhân vật ra làm nhiều lớp, đặt các điểm nhìn cùng lúc để nghiên cứu chúng dưới từng góc độ, trong các giả định và chiều kích không gian khác nhau - loại kỹ thuật mà trước đây tôi hầu như không sử dụng đến. Tôi cũng chú tâm nhiều hơn đến nhịp điệu tổng thể, tông giọng và những chuyển đổi khác biệt giữa từng mạch văn, sao cho các loại không gian tâm trạng khác nhau được bày ra một cách cố ý”(4).
VĐG cho biết thêm :” Nghề thiết kế mỹ thuật giúp tôi ứng dụng vài kỹ thuật vào viết, ví dụ như sáng tạo các chi tiết cách điệu nhằm gây ấn tượng mạnh, chú trọng vào bố cục chặt chẽ, tính nhịp điệu, hiệu ứng thị giác sinh động khi miêu tả đối tượng...”
VĐG nhận thức thế nào về hành trình sáng tạo của mình ? Khi được hỏi :” Vậy là viết để giải mã chính mình hay…?” VĐG trả lời : - Vâng, tôi cũng thấy như vậy! “Một hành trình tự nhận thức” Càng viết, tôi càng thấy mình giống như bị dẫn sâu vào một đường hầm bí ẩn, chỉ có đi vào chứ không thể lùi ra. Tình trạng đó khiến mình phải tập thói quen nhận diện rõ ràng mọi thứ trong tăm tối, đồng thời kiểm soát nỗi sợ hãi và dè dặt bước chân nếu không muốn sa lầy”(4)
Quan sát ý thức sáng tạo của VĐG ở trên, tôi không thấy điều gì là mới lạ hay là cá tính độc đáo cả. Tiểu thuyết hư cấu (fiction) đã có từ lâu trong văn chương. Kỹ thuật mổ xẻ nội tâm, hay kỹ thuật phân thân, tách nhập nhân vật ra làm nhiều lớp cũng không phải là mới. Nói cho đúng VĐG chú ý đến kỹ thuật viết nhiều hơn. VĐG không có ý thức cách tân nghệ thuật tiểu thuyết. Anh cũng chưa có được một kiểu tư duy nghệ thuật mới. Điều mà người đọc thấy là “mới” của VĐG ở Song Song là tiếng nói trực tiếp của người đồng tính, là cách viết gây rối khiến người đọc không sao phân biệt được nhân vật xưng Tôi là ai (G.g, H hay Kan). VĐG có thêm góc nhìn Camera để cho sự việc hiện lên khách quan. Nếu nói “cái mới lạ” nữa trong Song Song thì đó là những trò chơi giết chóc quái gở như trong ảo giác của những người bị tâm thần phân liệt. Màu đỏ máu được tô đậm suốt tác phẩm. Nếu bỏ đi những đoạn đối thoại và miêu tả, thì Song Song chỉ còn lại là những cảnh làm tình của những người đồng tính nam, thuần túy bản năng và hết sức quái gở (bạo dâm, khổ dâm ) theo khả năng tác giả có thể tưởng tượng được. Đọc Song Song thì rất nặng đầu mà gấp Song Song lại, thì nhẹ hẫng, bởi Song Song chẳng để lại được điều gì trong lòng người đọc.
Nhà văn Phong Điệp có cảm nhận này:” Không thể phủ nhận đây là một cuốn sách khó đọc, thậm chí nên có “chống chỉ định” rằng: những ai đang trong tâm trạng trầm uất thì không nên đọc”. Thú thực đọc Song Song tôi nặng đầu kinh khủng. Nhiều lần định buông không đọc nữa, bởi không chỉ nhà văn “hành hạ nhân vật” mà chính anh ta đang hành hạ độc giả bằng những kỹ thuật gây “ấn tượng”.
Ngoài kia, cuộc sống cao rộng, sôi nổi biết bao. Xung quanh ta có bao điều thú vị nhưng ta cũng phải đối mặt với những vấn đề nóng bỏng có thể làm nổ tung cả trái đất. Ta day dứt không nguôi với bao điều nhức nhối tâm can, nhưng ta cũng tìm được những phút dịu êm trong vòng tay của những người thương yêu. Cuộc sống cuồn cuộn chảy về tương lai với bao nhiêu hy vọng. Khi tôi viết những dòng này thì ở Libia hàng trăm ngàn người tỵ nạn đang khốn khổ cần cứu giúp. May mắn thay hơn bốn ngàn công nhân Việt Nam ở Libia đã được đưa về nước. Nhưng trong nước, bão giá đang quất những ngọn gió rất mạnh vào mái tranh của nhiều gia đình, khiến mặt người nhìn nhau se sắt, ái ngại. Hoàng sa vẫn dậy sóng. Nhưng dù thế nào, Việt Nam vẫn đang lớn lên, cuồn cuộn trong dòng chảy vươn ra biển lớn.
Vậy mà Song Song lại dẫn ta vào một căn nhà gỗ nhỏ, tăm tối, rồi nhét ta vào bồn tắm, thậm chí chôn ta xuống một cái hố ngoài vườn, bắt ta mở mắt xem những trò quái gở như đổ thuốc trừ sâu và mực đen vào chậu thau nước để giết mặt trời, làm cho cái ghế thành thương tật, dùng dây thòng lọng cột những con rối lên trần, tìm cách thủ tiêu con cú bằng đồng. Bắt ta chứng kiến những cảnh khổ dâm bằng roi da, cảnh làm tình trên giường đinh, chân thõng xuống xoa vào những con rắn, dìm ta xuống hồ nước massage trong G.World... Ta bị nén chặt trong một không gian tăm tối trầm uất không lối thoát . Ngột ngạt không sao chịu nổi. Chưa hết, VĐG đổ lên người ta những loáng nước đỏ máu (máu rắn lục pha máu ngỗng, nhiều lắm, cả nước sơn màu đỏ) và để lưỡi dao lam lên đầu ta, giương cái búa tạ lên và liên tục hét vào tai ta : Giết! Giết! Giết! Ta kinh hãi tột độ. “roẹt! “thế là xong đời....Ta tưởng mình đã chết ngọt lịm. Nhưng không…Đấy chỉ là trò bịp của trí tưởng tượng. Nhảm nhí hết sức, mất thời gian, vô ích. Tôi tiếc cái công sức mình đã bỏ ra để đọc tác phẩm. Đó là cái “ấn tượng “ mà Song Song để lại trong tôi. Có lẽ VĐG đã đạt được mục đích viết của mình. Anh bảo : “Tôi hy vọng mình có thể viết một cuốn gây chút ấn tượng. Giữa “hay” và “ấn tượng”, tôi thích chữ sau hơn!”. Liệu những “ấn tượng” như thế có ích gì cho văn chương không ?
Nếu người đọc chỉ đọc để giải trí, để tiêu khiển, để tìm cảm giác lạ, để phiêu lưu vào những thế giới chưa hề có chưa hề biết, thì nhà văn nên viết cho có “ấn tượng”. Bởi sau khi đọc xong , người đọc sẽ quên ngay, thậm chí vứt cuốn truyện ấy vào sọt rác của bộ nhớ. Tôi không tin rằng VĐG định tìm kiếm những “ấn tượng” như thế. Anh bảo “Viết là một hành trình nhận thức”. Vậy anh nhận thức thế nào về người đồng tính nam trong Song Song ?
Anh miêu tả họ có hai con người. Con người xã hội bình thường, họ là họa sĩ, là nhân viên công ty như mọi người, và một con người trống rỗng, cô độc, sống trong những ảo giác giết chóc. Tất cả ý thức, tri giác và hành động của họ chỉ còn là tìm kiếm thỏa mãn bản năng tình dục. Vấn đề là ở chỗ, VĐG không miêu tả con người xã hội của họ như họ đang tồn tại, mà chỉ tập trung tô đậm tính quái gở ở họ. Khiến cho nhân vật trở nên méo mó, tính chân thực nghệ thuật bị xuyên tạc. Nhân vật trở thành “nhận thức” hết sức lệch lạc của nhà văn về hiện thực. VĐG cũng không lý giải được nguyên nhân đồng tính nam là do đâu? Không lý giải được điều gì bên trong con người họ thôi thúc họ tìm đến nhau để thỏa mãn tình dục. Nói cách khác VĐG chỉ miêu tả hiện tượng đồng tính mà không có khả năng thâm nhập sâu vào cái căn cốt bên trong để khám phá, giải mã những hiện tượng đồng tính. Anh áp đặt cho nhân vật đồng tính của mình những ý niệm như cô đơn, trống rỗng, cuộc sống của những sinh vật lạc loài, bệnh hoạn, tật nguyền.(307) Anh không đưa ra được lời khuyên hay giải pháp nào cho họ, có chăng một chút cảm thông hời hợt (tr.288) .
Tôi cho rằng đó là chỗ thất bại của VĐG trong Song Song. Tiểu thuyết hư cấu tồn tại được là ở hình tượng nghệ thuật và tư tưởng. VĐG không có tư tưởng. Nói cho cạn nhẽ, anh có nói đến “cơn buồn nôn” (tr.50, 129…) nhưng đó không phải là trạng thái buồn nôn triết học trước hiện sinh, mà thuần túy là cảm giác tâm lý. Hình tượng nghệ thuật của VĐG mới ở dạng trứng nước, chưa đủ tượng hình, lại bị làm cho xô dạt đi, thành méo mó. Cuối cùng, Song Song chỉ còn là một cuốn truyện giải trí đơn điệu.
Vũ Đình Giang chọn lối viết khó đọc. Vậy lối viết khó đọc của VĐG có những độc đáo và giá trị gì? Thông thường khi nói một tác giả khó đọc, một tác phẩm khó đọc là nói về độ khó trong khám phá tư tưởng và nghệ thuật của tác giả và tác phẩm ấy. Chẳng hạn F.Kafka, Gabriel Garcia Márquez . Đó là cái khó của tư tưởng mà người đọc bình thường không có vốn tri thức triết học sẽ không thâm nhập được. Đó là cái khó của tư duy nghệ thuật và bút pháp, (chẳng hạn chủ nghĩa Siêu Thực, mà người quen đọc tác phẩm Hiện Thực khó tiếp cận được). Xin lưu ý điều này. Viết khó đọc không phải là giá trị văn chương của một tác giả hay tác phẩm. E.Hemingway được vinh danh vì ông là nhà văn “viết một áng văn xuôi đơn giản và trung thực về con người “ còn A. Schopenhauer thì bảo rằng :”không gì dễ hơn là viết khiến cho không ai hiểu gì cả, ngược lại, không có gì khó hơn là diễn tả những điều sâu xa bằng một cách mà tất cả mọi người, từ ngu phu, ngu phụ đều nhất thiết hiểu được....Sự đơn giản bao giờ cũng được coi như một dấu hiệu của sự thật, nó còn là một dấu hiệu của thiên tài...một bút pháp tối tăm hay tồi tệ có nghĩa là một đầu óc trì độn hay rối loạn “(5)
“Cái khó “ của văn chương VĐG không thuộc về tư tưởng và nghệ thuật mà thuần túy thuộc về kỹ thuật gây rối của tác giả.
Trong 108 phân đoạn cùng với những ngày tháng và lời giới thiệu ở đầu cuốn sách, mỗi phân đoạn đều được nhân vất TÔI kể lại sự việc . Nhưng TÔI là ai? Là G.g, H, hay Kan? Nếu người đọc không làm bản thống kê và phân tích dữ liệu thì không thể biết TÔI là ai, thế là câu chuyện rối tung lên. Và dù khi đã biết Tôi là ai, thì người đọc cũng bất lực theo dõi câu chuyện, vì cả ba nhân vật G.g, H và Kan cũng chỉ là một, nhạt nhòa vào nhau. Chỗ non tay của VĐG là không xây dựng được từng nhân nhật như một cá tính độc đáo, khác biệt hẳn với nhân vật khác, mặc dù anh có đắp cho nhân vật một chút lai lịch quá khứ. ( lai lịch Kan đoạn 33-lai lịch G.g, đoạn 95) .
Cái khó đọc khác của VĐG là sự trộn lẫn thực - ảo. Nhà văn Bích Ngân gọi là “mới lạ ngay trong chính nội dung song song của nó về cái tính gỉa- thật, thật-giả, về trạng thái thực-ảo lẫn lộn” (tr.325). Đúng là kỹ thuật trộn lẫn thật-ảo có làm cho người đọc ngạc nhiên và khó hiểu đôi chút, nhưng nó chỉ mang đến sự ngạc nhiên cơ giới của một trò hú tim mà thôi. Nó không tạo ra những giá trị tư tưởng và thẩm mỹ. Chẳng hạn cảnh khổ dâm trên giường đinh, thõng chân xuống xoa đầu lên những con rắn có làm cho người đọc kinh hoàng (đoạn 94-95), song ngay sau đó, VĐG bật mí : đó chỉ là những đinh cao su và những con rắn cao su. Thế là toàn bộ cảm giác người đọc có được khi ngỡ rằng đó là cảnh thật đã tan biến nhanh. À! thì ra văn chương chỉ là trò chơi thôi mà! Nhưng có điều này : Nếu VĐG để cho G.g và H giết ông già và thằng bé hàng xóm là thực , việc tự sát của G.g là thực, thì chính tác giả là kẻ thủ ác, bởi nhà văn đã không lý giải được nguyên nhân và hậu quả của hành vi tàn ác này. Tôi tin rằng, một lần nữa VĐG lại chơi trò cá tháng Tư với độc giả?
VĐG miêu tả các nhân vật rất ý thức về chính bản thể của mình. Họ có cái nhìn tỉnh táo và hành xử rất lý trí trước mọi sự việc xảy ra. Nhận thức của họ tưởng như đạt tới chiều sâu triết lý. Vậy mà cũng chính những con người ấy lại trườn đi như những robot bị điều khiển bởi bản năng mà không hề cố thoát ra hay cố tìm nguyên nhân để tự sửa chữa, để trở về đời sống bình thường. H sống và làm tình với G.g, nhung nhớ G.g như một người yêu. Nhưng H lại lén lút ăn nằm với Kan, tránh không cho G.g biết. Và Kan, lại buông thả nhục dục với G.g. trong sự chứng kiến của H. Tại sao có hiện tượng ấy? Hoặc là nhà văn cố ý miêu tả như vậy do không lý giải được ; hoặc nhà văn trộn lẫn hai đặc điểm ấy để tạo ra sự giả ngụy, thật-giả, giả-thật như nhà văn Bích Ngân nhận xét, để vừa thuyết phục người đọc rằng những điều nhà văn viết về đồng tính là thật, vừa nói rằng họ đáng thương bởi họ bị điều khiển bởi bản năng mù quáng. VĐG không miêu tả họ mù quáng, trái lại, nhà văn chỉ rõ họ ý thức trạng thái sống giả, họ tìm kiếm những trải nghiệm chung đụng thân xác với nhiều đối tượng, nhiều kiểu hành dâm. Họ biết rõ sống như thế là tội lỗi, nhưng họ vẫn chọn lựa thái độ sống ấy.
Điều đáng tiếc là VĐG đã không miêu tả được những phẩm chất Người khác ở họ. Chẳng hạn tình yêu giữa những người đồng tính. VĐG có để cho nhân vật nói : Tôi yêu ông ấy, nhưng tình yêu ấy cụ thể được khám phá thế nào, khác với tình yêu nam nữ ra sao, tình yêu ấy dẫn những con người đồng tính đi về đâu, tình yêu ấy trả lại cho họ những giá trị nhân bản nào? Trong thực tế đã có những cặp đồng tình cưới nhau và chung sống như vợ chồng. Họ khẳng định hạnh phúc của chính họ. VĐG chưa chạm tới được những giá trị ấy, thành ra những gì VĐG viết về họ cũng chỉ là trò bịp (chữ của VĐG) mà thôi. Và chính trò bịp ấy làm cho văn VĐG trở nên khó hiểu. Tiếng nói bênh vực, cảm thông với họ trở nên nhợt nhạt. Những gì VĐG khám phá về họ trở nên vô nghĩa, và cái được gọi là “táo bạo, mới lạ” của ngòi bút VĐG chẳng qua chỉ là trò cá tháng tư, chẳng có giá trị tư tưởng nghệ thuật gì !
Dầu vậy, đọc Song Song, tôi đã thấy hé lộ những trang văn của một ngòi bút tài năng. Anh miêu tả thật sống động những cảnh sống, những trạng thái tâm hồn ; miêu tả được “dòng ý thức “trôi chảy bên trong của nhân vật. Ngôn ngữ tiểu thuyết chuẩn xác và đặc quánh. Ngôn ngữ chứa đựng năng lượng làm vỡ ra một thế giới nghệ thuật rất riêng. Ngôn ngữ có sức khủng bố não trạng người đọc. Ngôn ngữ có ma lực làm người đọc hôn mê ú ớ, không thoát ra được. Kỹ năng miêu tả tâm lý, phân tích tâm lý của anh gần đạt đến cách miêu tả Hiện Tượng Luận trong văn chương Hiện Sinh. Cách miêu tả như thế ít nhà văn trẻ Việt Nam có được. Chỉ tiếc rằng văn chương của anh thiếu tư tưởng. Chỉ tiếc rằng anh chưa xây dựng được kiểu nhân vật tư tưởng, bởi đó là hai yếu tố để một tác phẩm hư cấu đứng được. Và tất cả những gì trong quan niệm sáng tạo nghệ thuật của anh chưa giúp anh viết được một tác phẩm giá trị, tương xứng với tài năng của anh, ngoài cái “ấn tượng” mà anh có thể gieo vào đầu người đọc.
Tôi ngờ rằng người đọc chỉ đủ can đảm bị cái “ấn tượng” ấy ám ảnh một lần thôi. Họ sẽ không bao giờ để VĐG chôn trong bồn tắm mà đổ ngập nước đỏ lòm máu rắn, máu ngỗng và phẩm màu vào người họ một lần nữa. Họ sẽ không dại dột cho anh để dao lam trên đầu họ. Lạnh lùng giết họ : “roẹt”. Và ném lại một lời :”Tôi đi đây” (tr.313). Bởi ngoài kia còn bao điều tươi đẹp hạnh phúc đang chờ họ. Sẽ chỉ có mình anh đi vào đường hầm sáng tạo . Anh bảo :” Càng viết, tôi càng thấy mình giống như bị dẫn sâu vào một đường hầm bí ẩn, chỉ có đi vào chứ không thể lùi ra.”Dù nhà văn đi trong đường hầm nhưng văn chương cần có ánh sáng minh triết soi dẫn và một tấm lòng nhân hậu đủ sưởi ấm mọi nẻo giá băng của lòng người. Văn chương ấy mới cần cho đời.
Tháng 3. 2011
_________________________________________________
(1) http://www.baomoi.com/Viet-la-sang-tao-nen-cuoc-song/152/4842827.epi
(2) http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=4892
(3) http://tintuc.xalo.vn/00-1240887043/Nha_van_Vu_Dinh_Giang_Toi_thich_hanh_ha_cac_nhan_vat_nbsp.html
(4) http://tintuc.xalo.vn/001786814445/Vu_Dinh_Giang_Lam_la_hoa_nhung_dieu_binh_thuong.html
(5) Con Đường Sáng Tạo- Nguyễn Hữu Hiệu dịch và giới thiệu.-A.Schopenhauer nói về bút pháp-Quế Sơn ấn hành lần thứ I năm 1971, Hồng Hà ấn hành lần II năm 1973, Sàigon
SONG SONG NHỮNG PHẬN NGƯỜI
(tiểu thuyết Song Song của Vũ Đình Giang. Nxb Văn Nghệ 2007)
Song Song là câu chuyện của những người đồng tính. Kết thúc truyện, tác giả viết “Đừng hồ nghi trí tưởng tượng, hãy tiếp tục suy diễn đi. Tôi khuyến khích sự suy diễn...Trò bịp nào cũng khởi đi từ một cội nguồn khốn khổ...Ngày 1 tháng Tư, bạn nhớ không... Cả thế giới thừa biết đó là ngày gì”(tr. 319) .Vâng, như vậy là đã rõ. Song Song chỉ là một trò bịp của ngày cá tháng tư. Nói một cách khác, đó chỉ là truyện hư cấu, truyện bịa đặt của trí tưởng tượng. Vì thế người đọc không cần bận tâm đến những gì nhà văn miêu tả, cũng không cần phải xét xem trong thực tế có những con người và những câu chuyện như thế không, bởi Vũ Đình Giang (VĐG) chủ trương “Văn chương là nghệ thuật của hư cấu, hướng vào những khai phá mang tính mới lạ và khác biệt”...” Tôi luôn quan niệm, viết là sáng tạo nên cuộc sống. Thế giới hiện ra dưới ngòi bút của nhà văn là những con người và cuộc đời khác biệt, mới mẻ, thú vị như chưa từng được biết”(1).Vấn đề là qua tác phẩm, nhà văn nói gì và tiếng nói nghệ thuật của anh ta có gì mới mẻ, đặc sắc hay không !
Nhà văn Phong Điệp cho rằng :” Với Song Song, tác giả đã thể hiện bản lĩnh sáng tạo của mình. ... Xác lập một dấu ấn riêng, không trộn lẫn - cá tính, khác lạ - đó những điều Vũ Đình Giang đã và đang làm trong hành trình văn chương của mình…”(2). Nhà văn Bích Ngân thì nhận xét : “Với Song Song, Vũ Đình Giang đã giải tỏa cơn dằn vặt của ý thức. Giang và một vài người viết trẻ khác, đã không chấp nhận lối viết giống với những gì đã có, không trượt theo đường mòn quen thuộc, không viết theo xu hướng thỏa hiệp với chính mình. Giang viết trong khát vọng muốn tìm kiếm những giá trị mới cho văn học trong xu thế mới. ” (tr.325).
Vậy thì, “bản lĩnh sáng tạo, dấu ấn riêng, khát vọng tìm kiếm những giá trị mới cho văn học” của Vũ Đình Giang là gì?
Xin hãy nghe VĐG trình bày : “Sở thích của tôi là hành hạ các nhân vật của mình, bằng cách ném chúng vào những trường hợp gian khó, quá trình chúng quẫy đạp tìm cách thoát hoặc tự huỷ hoại, cũng là lúc chúng thách thức ngược lại tôi. Giải quyết xong vấn đề của nhân vật là mọi khó khăn chấm dứt. Có thấm mệt đôi chút nhưng tôi dễ dàng sa ngay vào những trò nhảm nhí hấp dẫn khác, nhờ thế tôi bắt đầu sáng tác mới. Thú thật, tôi là người chỉ thích mổ xẻ nội tâm phức tạp của con người trên trang viết, ngoài đời tôi lảng tránh mọi kiểu đau khổ dù nó cố lao vào.”(3)
Kỹ thuật viết của VĐG có gì đặc biệt ? -” Ở cuốn Song Song, tôi thử tách - nhập nhân vật ra làm nhiều lớp, đặt các điểm nhìn cùng lúc để nghiên cứu chúng dưới từng góc độ, trong các giả định và chiều kích không gian khác nhau - loại kỹ thuật mà trước đây tôi hầu như không sử dụng đến. Tôi cũng chú tâm nhiều hơn đến nhịp điệu tổng thể, tông giọng và những chuyển đổi khác biệt giữa từng mạch văn, sao cho các loại không gian tâm trạng khác nhau được bày ra một cách cố ý”(4).
VĐG cho biết thêm :” Nghề thiết kế mỹ thuật giúp tôi ứng dụng vài kỹ thuật vào viết, ví dụ như sáng tạo các chi tiết cách điệu nhằm gây ấn tượng mạnh, chú trọng vào bố cục chặt chẽ, tính nhịp điệu, hiệu ứng thị giác sinh động khi miêu tả đối tượng...”
VĐG nhận thức thế nào về hành trình sáng tạo của mình ? Khi được hỏi :” Vậy là viết để giải mã chính mình hay…?” VĐG trả lời : - Vâng, tôi cũng thấy như vậy! “Một hành trình tự nhận thức” Càng viết, tôi càng thấy mình giống như bị dẫn sâu vào một đường hầm bí ẩn, chỉ có đi vào chứ không thể lùi ra. Tình trạng đó khiến mình phải tập thói quen nhận diện rõ ràng mọi thứ trong tăm tối, đồng thời kiểm soát nỗi sợ hãi và dè dặt bước chân nếu không muốn sa lầy”(4)
Quan sát ý thức sáng tạo của VĐG ở trên, tôi không thấy điều gì là mới lạ hay là cá tính độc đáo cả. Tiểu thuyết hư cấu (fiction) đã có từ lâu trong văn chương. Kỹ thuật mổ xẻ nội tâm, hay kỹ thuật phân thân, tách nhập nhân vật ra làm nhiều lớp cũng không phải là mới. Nói cho đúng VĐG chú ý đến kỹ thuật viết nhiều hơn. VĐG không có ý thức cách tân nghệ thuật tiểu thuyết. Anh cũng chưa có được một kiểu tư duy nghệ thuật mới. Điều mà người đọc thấy là “mới” của VĐG ở Song Song là tiếng nói trực tiếp của người đồng tính, là cách viết gây rối khiến người đọc không sao phân biệt được nhân vật xưng Tôi là ai (G.g, H hay Kan). VĐG có thêm góc nhìn Camera để cho sự việc hiện lên khách quan. Nếu nói “cái mới lạ” nữa trong Song Song thì đó là những trò chơi giết chóc quái gở như trong ảo giác của những người bị tâm thần phân liệt. Màu đỏ máu được tô đậm suốt tác phẩm. Nếu bỏ đi những đoạn đối thoại và miêu tả, thì Song Song chỉ còn lại là những cảnh làm tình của những người đồng tính nam, thuần túy bản năng và hết sức quái gở (bạo dâm, khổ dâm ) theo khả năng tác giả có thể tưởng tượng được. Đọc Song Song thì rất nặng đầu mà gấp Song Song lại, thì nhẹ hẫng, bởi Song Song chẳng để lại được điều gì trong lòng người đọc.
Nhà văn Phong Điệp có cảm nhận này:” Không thể phủ nhận đây là một cuốn sách khó đọc, thậm chí nên có “chống chỉ định” rằng: những ai đang trong tâm trạng trầm uất thì không nên đọc”. Thú thực đọc Song Song tôi nặng đầu kinh khủng. Nhiều lần định buông không đọc nữa, bởi không chỉ nhà văn “hành hạ nhân vật” mà chính anh ta đang hành hạ độc giả bằng những kỹ thuật gây “ấn tượng”.
Ngoài kia, cuộc sống cao rộng, sôi nổi biết bao. Xung quanh ta có bao điều thú vị nhưng ta cũng phải đối mặt với những vấn đề nóng bỏng có thể làm nổ tung cả trái đất. Ta day dứt không nguôi với bao điều nhức nhối tâm can, nhưng ta cũng tìm được những phút dịu êm trong vòng tay của những người thương yêu. Cuộc sống cuồn cuộn chảy về tương lai với bao nhiêu hy vọng. Khi tôi viết những dòng này thì ở Libia hàng trăm ngàn người tỵ nạn đang khốn khổ cần cứu giúp. May mắn thay hơn bốn ngàn công nhân Việt Nam ở Libia đã được đưa về nước. Nhưng trong nước, bão giá đang quất những ngọn gió rất mạnh vào mái tranh của nhiều gia đình, khiến mặt người nhìn nhau se sắt, ái ngại. Hoàng sa vẫn dậy sóng. Nhưng dù thế nào, Việt Nam vẫn đang lớn lên, cuồn cuộn trong dòng chảy vươn ra biển lớn.
Vậy mà Song Song lại dẫn ta vào một căn nhà gỗ nhỏ, tăm tối, rồi nhét ta vào bồn tắm, thậm chí chôn ta xuống một cái hố ngoài vườn, bắt ta mở mắt xem những trò quái gở như đổ thuốc trừ sâu và mực đen vào chậu thau nước để giết mặt trời, làm cho cái ghế thành thương tật, dùng dây thòng lọng cột những con rối lên trần, tìm cách thủ tiêu con cú bằng đồng. Bắt ta chứng kiến những cảnh khổ dâm bằng roi da, cảnh làm tình trên giường đinh, chân thõng xuống xoa vào những con rắn, dìm ta xuống hồ nước massage trong G.World... Ta bị nén chặt trong một không gian tăm tối trầm uất không lối thoát . Ngột ngạt không sao chịu nổi. Chưa hết, VĐG đổ lên người ta những loáng nước đỏ máu (máu rắn lục pha máu ngỗng, nhiều lắm, cả nước sơn màu đỏ) và để lưỡi dao lam lên đầu ta, giương cái búa tạ lên và liên tục hét vào tai ta : Giết! Giết! Giết! Ta kinh hãi tột độ. “roẹt! “thế là xong đời....Ta tưởng mình đã chết ngọt lịm. Nhưng không…Đấy chỉ là trò bịp của trí tưởng tượng. Nhảm nhí hết sức, mất thời gian, vô ích. Tôi tiếc cái công sức mình đã bỏ ra để đọc tác phẩm. Đó là cái “ấn tượng “ mà Song Song để lại trong tôi. Có lẽ VĐG đã đạt được mục đích viết của mình. Anh bảo : “Tôi hy vọng mình có thể viết một cuốn gây chút ấn tượng. Giữa “hay” và “ấn tượng”, tôi thích chữ sau hơn!”. Liệu những “ấn tượng” như thế có ích gì cho văn chương không ?
Nếu người đọc chỉ đọc để giải trí, để tiêu khiển, để tìm cảm giác lạ, để phiêu lưu vào những thế giới chưa hề có chưa hề biết, thì nhà văn nên viết cho có “ấn tượng”. Bởi sau khi đọc xong , người đọc sẽ quên ngay, thậm chí vứt cuốn truyện ấy vào sọt rác của bộ nhớ. Tôi không tin rằng VĐG định tìm kiếm những “ấn tượng” như thế. Anh bảo “Viết là một hành trình nhận thức”. Vậy anh nhận thức thế nào về người đồng tính nam trong Song Song ?
Anh miêu tả họ có hai con người. Con người xã hội bình thường, họ là họa sĩ, là nhân viên công ty như mọi người, và một con người trống rỗng, cô độc, sống trong những ảo giác giết chóc. Tất cả ý thức, tri giác và hành động của họ chỉ còn là tìm kiếm thỏa mãn bản năng tình dục. Vấn đề là ở chỗ, VĐG không miêu tả con người xã hội của họ như họ đang tồn tại, mà chỉ tập trung tô đậm tính quái gở ở họ. Khiến cho nhân vật trở nên méo mó, tính chân thực nghệ thuật bị xuyên tạc. Nhân vật trở thành “nhận thức” hết sức lệch lạc của nhà văn về hiện thực. VĐG cũng không lý giải được nguyên nhân đồng tính nam là do đâu? Không lý giải được điều gì bên trong con người họ thôi thúc họ tìm đến nhau để thỏa mãn tình dục. Nói cách khác VĐG chỉ miêu tả hiện tượng đồng tính mà không có khả năng thâm nhập sâu vào cái căn cốt bên trong để khám phá, giải mã những hiện tượng đồng tính. Anh áp đặt cho nhân vật đồng tính của mình những ý niệm như cô đơn, trống rỗng, cuộc sống của những sinh vật lạc loài, bệnh hoạn, tật nguyền.(307) Anh không đưa ra được lời khuyên hay giải pháp nào cho họ, có chăng một chút cảm thông hời hợt (tr.288) .
Tôi cho rằng đó là chỗ thất bại của VĐG trong Song Song. Tiểu thuyết hư cấu tồn tại được là ở hình tượng nghệ thuật và tư tưởng. VĐG không có tư tưởng. Nói cho cạn nhẽ, anh có nói đến “cơn buồn nôn” (tr.50, 129…) nhưng đó không phải là trạng thái buồn nôn triết học trước hiện sinh, mà thuần túy là cảm giác tâm lý. Hình tượng nghệ thuật của VĐG mới ở dạng trứng nước, chưa đủ tượng hình, lại bị làm cho xô dạt đi, thành méo mó. Cuối cùng, Song Song chỉ còn là một cuốn truyện giải trí đơn điệu.
Vũ Đình Giang chọn lối viết khó đọc. Vậy lối viết khó đọc của VĐG có những độc đáo và giá trị gì? Thông thường khi nói một tác giả khó đọc, một tác phẩm khó đọc là nói về độ khó trong khám phá tư tưởng và nghệ thuật của tác giả và tác phẩm ấy. Chẳng hạn F.Kafka, Gabriel Garcia Márquez . Đó là cái khó của tư tưởng mà người đọc bình thường không có vốn tri thức triết học sẽ không thâm nhập được. Đó là cái khó của tư duy nghệ thuật và bút pháp, (chẳng hạn chủ nghĩa Siêu Thực, mà người quen đọc tác phẩm Hiện Thực khó tiếp cận được). Xin lưu ý điều này. Viết khó đọc không phải là giá trị văn chương của một tác giả hay tác phẩm. E.Hemingway được vinh danh vì ông là nhà văn “viết một áng văn xuôi đơn giản và trung thực về con người “ còn A. Schopenhauer thì bảo rằng :”không gì dễ hơn là viết khiến cho không ai hiểu gì cả, ngược lại, không có gì khó hơn là diễn tả những điều sâu xa bằng một cách mà tất cả mọi người, từ ngu phu, ngu phụ đều nhất thiết hiểu được....Sự đơn giản bao giờ cũng được coi như một dấu hiệu của sự thật, nó còn là một dấu hiệu của thiên tài...một bút pháp tối tăm hay tồi tệ có nghĩa là một đầu óc trì độn hay rối loạn “(5)
“Cái khó “ của văn chương VĐG không thuộc về tư tưởng và nghệ thuật mà thuần túy thuộc về kỹ thuật gây rối của tác giả.
Trong 108 phân đoạn cùng với những ngày tháng và lời giới thiệu ở đầu cuốn sách, mỗi phân đoạn đều được nhân vất TÔI kể lại sự việc . Nhưng TÔI là ai? Là G.g, H, hay Kan? Nếu người đọc không làm bản thống kê và phân tích dữ liệu thì không thể biết TÔI là ai, thế là câu chuyện rối tung lên. Và dù khi đã biết Tôi là ai, thì người đọc cũng bất lực theo dõi câu chuyện, vì cả ba nhân vật G.g, H và Kan cũng chỉ là một, nhạt nhòa vào nhau. Chỗ non tay của VĐG là không xây dựng được từng nhân nhật như một cá tính độc đáo, khác biệt hẳn với nhân vật khác, mặc dù anh có đắp cho nhân vật một chút lai lịch quá khứ. ( lai lịch Kan đoạn 33-lai lịch G.g, đoạn 95) .
Cái khó đọc khác của VĐG là sự trộn lẫn thực - ảo. Nhà văn Bích Ngân gọi là “mới lạ ngay trong chính nội dung song song của nó về cái tính gỉa- thật, thật-giả, về trạng thái thực-ảo lẫn lộn” (tr.325). Đúng là kỹ thuật trộn lẫn thật-ảo có làm cho người đọc ngạc nhiên và khó hiểu đôi chút, nhưng nó chỉ mang đến sự ngạc nhiên cơ giới của một trò hú tim mà thôi. Nó không tạo ra những giá trị tư tưởng và thẩm mỹ. Chẳng hạn cảnh khổ dâm trên giường đinh, thõng chân xuống xoa đầu lên những con rắn có làm cho người đọc kinh hoàng (đoạn 94-95), song ngay sau đó, VĐG bật mí : đó chỉ là những đinh cao su và những con rắn cao su. Thế là toàn bộ cảm giác người đọc có được khi ngỡ rằng đó là cảnh thật đã tan biến nhanh. À! thì ra văn chương chỉ là trò chơi thôi mà! Nhưng có điều này : Nếu VĐG để cho G.g và H giết ông già và thằng bé hàng xóm là thực , việc tự sát của G.g là thực, thì chính tác giả là kẻ thủ ác, bởi nhà văn đã không lý giải được nguyên nhân và hậu quả của hành vi tàn ác này. Tôi tin rằng, một lần nữa VĐG lại chơi trò cá tháng Tư với độc giả?
VĐG miêu tả các nhân vật rất ý thức về chính bản thể của mình. Họ có cái nhìn tỉnh táo và hành xử rất lý trí trước mọi sự việc xảy ra. Nhận thức của họ tưởng như đạt tới chiều sâu triết lý. Vậy mà cũng chính những con người ấy lại trườn đi như những robot bị điều khiển bởi bản năng mà không hề cố thoát ra hay cố tìm nguyên nhân để tự sửa chữa, để trở về đời sống bình thường. H sống và làm tình với G.g, nhung nhớ G.g như một người yêu. Nhưng H lại lén lút ăn nằm với Kan, tránh không cho G.g biết. Và Kan, lại buông thả nhục dục với G.g. trong sự chứng kiến của H. Tại sao có hiện tượng ấy? Hoặc là nhà văn cố ý miêu tả như vậy do không lý giải được ; hoặc nhà văn trộn lẫn hai đặc điểm ấy để tạo ra sự giả ngụy, thật-giả, giả-thật như nhà văn Bích Ngân nhận xét, để vừa thuyết phục người đọc rằng những điều nhà văn viết về đồng tính là thật, vừa nói rằng họ đáng thương bởi họ bị điều khiển bởi bản năng mù quáng. VĐG không miêu tả họ mù quáng, trái lại, nhà văn chỉ rõ họ ý thức trạng thái sống giả, họ tìm kiếm những trải nghiệm chung đụng thân xác với nhiều đối tượng, nhiều kiểu hành dâm. Họ biết rõ sống như thế là tội lỗi, nhưng họ vẫn chọn lựa thái độ sống ấy.
Điều đáng tiếc là VĐG đã không miêu tả được những phẩm chất Người khác ở họ. Chẳng hạn tình yêu giữa những người đồng tính. VĐG có để cho nhân vật nói : Tôi yêu ông ấy, nhưng tình yêu ấy cụ thể được khám phá thế nào, khác với tình yêu nam nữ ra sao, tình yêu ấy dẫn những con người đồng tính đi về đâu, tình yêu ấy trả lại cho họ những giá trị nhân bản nào? Trong thực tế đã có những cặp đồng tình cưới nhau và chung sống như vợ chồng. Họ khẳng định hạnh phúc của chính họ. VĐG chưa chạm tới được những giá trị ấy, thành ra những gì VĐG viết về họ cũng chỉ là trò bịp (chữ của VĐG) mà thôi. Và chính trò bịp ấy làm cho văn VĐG trở nên khó hiểu. Tiếng nói bênh vực, cảm thông với họ trở nên nhợt nhạt. Những gì VĐG khám phá về họ trở nên vô nghĩa, và cái được gọi là “táo bạo, mới lạ” của ngòi bút VĐG chẳng qua chỉ là trò cá tháng tư, chẳng có giá trị tư tưởng nghệ thuật gì !
Dầu vậy, đọc Song Song, tôi đã thấy hé lộ những trang văn của một ngòi bút tài năng. Anh miêu tả thật sống động những cảnh sống, những trạng thái tâm hồn ; miêu tả được “dòng ý thức “trôi chảy bên trong của nhân vật. Ngôn ngữ tiểu thuyết chuẩn xác và đặc quánh. Ngôn ngữ chứa đựng năng lượng làm vỡ ra một thế giới nghệ thuật rất riêng. Ngôn ngữ có sức khủng bố não trạng người đọc. Ngôn ngữ có ma lực làm người đọc hôn mê ú ớ, không thoát ra được. Kỹ năng miêu tả tâm lý, phân tích tâm lý của anh gần đạt đến cách miêu tả Hiện Tượng Luận trong văn chương Hiện Sinh. Cách miêu tả như thế ít nhà văn trẻ Việt Nam có được. Chỉ tiếc rằng văn chương của anh thiếu tư tưởng. Chỉ tiếc rằng anh chưa xây dựng được kiểu nhân vật tư tưởng, bởi đó là hai yếu tố để một tác phẩm hư cấu đứng được. Và tất cả những gì trong quan niệm sáng tạo nghệ thuật của anh chưa giúp anh viết được một tác phẩm giá trị, tương xứng với tài năng của anh, ngoài cái “ấn tượng” mà anh có thể gieo vào đầu người đọc.
Tôi ngờ rằng người đọc chỉ đủ can đảm bị cái “ấn tượng” ấy ám ảnh một lần thôi. Họ sẽ không bao giờ để VĐG chôn trong bồn tắm mà đổ ngập nước đỏ lòm máu rắn, máu ngỗng và phẩm màu vào người họ một lần nữa. Họ sẽ không dại dột cho anh để dao lam trên đầu họ. Lạnh lùng giết họ : “roẹt”. Và ném lại một lời :”Tôi đi đây” (tr.313). Bởi ngoài kia còn bao điều tươi đẹp hạnh phúc đang chờ họ. Sẽ chỉ có mình anh đi vào đường hầm sáng tạo . Anh bảo :” Càng viết, tôi càng thấy mình giống như bị dẫn sâu vào một đường hầm bí ẩn, chỉ có đi vào chứ không thể lùi ra.”Dù nhà văn đi trong đường hầm nhưng văn chương cần có ánh sáng minh triết soi dẫn và một tấm lòng nhân hậu đủ sưởi ấm mọi nẻo giá băng của lòng người. Văn chương ấy mới cần cho đời.
Tháng 3. 2011
_________________________________________________
(1) http://www.baomoi.com/Viet-la-sang-tao-nen-cuoc-song/152/4842827.epi
(2) http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=4892
(3) http://tintuc.xalo.vn/00-1240887043/Nha_van_Vu_Dinh_Giang_Toi_thich_hanh_ha_cac_nhan_vat_nbsp.html
(4) http://tintuc.xalo.vn/001786814445/Vu_Dinh_Giang_Lam_la_hoa_nhung_dieu_binh_thuong.html
(5) Con Đường Sáng Tạo- Nguyễn Hữu Hiệu dịch và giới thiệu.-A.Schopenhauer nói về bút pháp-Quế Sơn ấn hành lần thứ I năm 1971, Hồng Hà ấn hành lần II năm 1973, Sàigon
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)