Thư luận học: Gửi anh Bùi Công Thuấn
Tôi đã nhận được những sách anh gửi tặng kể cả lúc nó còn đang ở dạng bản thảo. Xin chân thành cám ơn anh đã nhớ đến tôi! Tất cả, tôi đều đọc rất say sưa, nghiêm túc, có tác phẩm đọc tới hai ba lần, chủ yếu với tinh thần học hỏi. Đáng tiếc là do ít ngoại ngữ, nhất là từ khi về hưu đến nay, vì có một vài việc riêng cần phải hoàn thành gấp nên tôi cũng không có nhiều thời gian để tiếp xúc với nhiều loại sách vở, nhất là với các tác phẩm văn chương và phê bình văn học xuất bản trong thời gian gần đây.
Cộng với thói quen đọc theo “cách đọc truyền thống”, chưa được chuẩn bị để sẵn sàng tiếp cận với “cách đọc mới” nên đọc những gì anh viết, có những cái tôi hiểu được nhưng cũng còn khá nhiều cái, thật tình mà nói là tôi…mù tịt. Vì thế đã có vài ba lần tôi đặt bút định viết một cái gì đó về các tác phẩm của anh nhưng rồi phải bỏ nửa chừng bởi thấy không chắc mình đã hiểu đúng ý tác giả. Tuy vậy, bằng những gì mà tôi thật sự hiểu được, tôi cảm thấy rất đáng nể phục.
Tôi quí anh trước hết ở tinh thần tự học, tự bồi bổ kiến thức cho mình không ngừng nghỉ, để bây giờ theo nhận xét rất thành thực của tôi, anh đã sở hữu được một kho tri thức văn chương “bách khoa” mà trong số rất ít bạn bè tôi quen biết trước nay, không phải ai cũng có thể sánh được.
Tôi cũng quí anh ở thái độ “độc lập” trong nghiên cứu, nghĩa là không dễ gì bị lệ thuộc vào những đấng “cây cao bóng cả” từng che lấp không nhiều thì ít bóng dáng cũng như cá tính của nhà phê bình mà độc giả dù không muốn vẫn thường xuyên bắt gặp ở một vài cây bút thiếu bản lĩnh. Tóm lại là, tôi tin những gì anh viết ra là của riêng anh, là những cái anh từng nghiền ngẫm, không dễ gì có được nếu không trải qua một thời gian dài ấp ủ với nhiều lao tâm khổ tứ. Tôi tôn trọng sự trung thực và óc sáng tạo trong đời sống cũng như trong văn chương và vì thế mà đánh giá rất cao những trang viết của anh. Càng đọc anh, tôi càng có cảm giác là anh đã độc lập được với mọi ám thị mà mình có thể bị lây nhiễm và nhờ thế mà được đền đáp; ý tôi muốn nói là anh đã góp được chút gì đó vào tiếng nói chung như anh từng mong muốn.
Tôi còn quí anh ở thái độ chừng mực khi phê bình, nhưng những lúc cần “quyết liệt” thì cũng dám quyết liệt. Tôi không có ác cảm gì với bà Thụy Khuê nhưng cái cách anh vạch ra ác ý của tác giả này trong khi phê bình tiểu thuyết “Ngồi” của Nguyễn Bình Phương thì người đọc nào, miễn là còn giữ được chút ít lòng tự tôn dân tộc cũng đều lấy làm…hả dạ! Bởi không cần phải tinh ý lắm, người đọc cũng có thể dễ dàng nhận ra mục đích ngoài văn chương nhưng lại sặc mùi chính trị của Nguyễn Thụy Khuê khi bà ta đánh đồng Việt Nam hôm nay với Giao Chỉ của ngàn năm trước để rồi tùy tiện bôi bẩn bức tranh xã hội ta vào nửa đầu thập kỷ thứ 21, lúc Nguyễn Bình Phương viết tiểu thuyết “Ngồi” là dậm chân tại chỗ trong sa đọa nhiều chiều. Dẫu sao thì bà Thụy Khuê cũng là người của “phía bên kia” nên thái độ quyết liệt của anh cũng là điều dễ hiểu. Cũng với một thái độ gần như thế, khi viết về “người đằng mình”, anh cũng thật rạch ròi, dứt khoát bởi không hề ngại va chạm, một phẩm chất không thể thiếu đối với một nhà phê bình trung thực, trung thực với đối tượng phê bình và trung thực ngay với chính bản thân mình. Nhận xét này có lẽ đúng nhất với trường hợp anh phê bình tiểu thuyết “Nháp”của Nguyễn Đình Tú. Từ ý đồ ban đầu của tác giả là muốn thể hiện thứ tư tưởng mỗi con người là bản nháp của người khác hay bản nháp của số phận, qua phân tích hệ thống các hình tượng và cấu trúc tác phẩm cũng như mục đích, thái độ miêu tả của tác giả, anh nhận thấy các nhân vật trong tiểu thuyết “Nháp” không thể hiện tư tưởng nháp, nếu có thì đó chỉ là nháp làm tình và đi tới kết luận: Cuối cùng tư tưởng nháp hiện nguyên hình chỉ là sự phô trương, cổ vũ cho những trải nghiệm sex bệnh hoạn, vô luân hay Nháp trần trụi là một truyện hình sự được tác giả nêm nếm đậm đà cho hợp với khẩu vị của dân chơi. Chưa dừng lạị, anh còn chỉ ra cho độc giả biết đâu là nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên. Theo anh, đó là do Nguyễn Đình Tú không có thứ tư tưởng của J.P.Sartre hay A.Camus, lại thêm tay nghề yếu nên không thể xây dựng kiểu nhân vật như tiểu thuyết tư tưởng của các nhà văn này. Đó rõ ràng là những kết luận không dễ làm vừa lòng tác giả và những nhà phê bình từng ca ngợi “Nháp” nhưng lại nhận được sự đồng tình từ phía người đọc bởi ai cũng nhận thấy đây không phải là những kết luận võ đoán mà có căn cứ rất vững vàng. Sức thuyết phục từ các trang viết có lẽ cũng là một thành công rất đáng được kể đến trong các tác phẩm phê bình của anh.
Một điều nữa khiến tôi ngạc nhiên và cũng rất vui mừng là từ bấy lâu nay anh vẫn giữ mãi được ngọn lửa nhiệt tình với văn chương, biểu hiện ở một sức viết thật sung mãn. Tôi cũng là người thi thoảng có viết chút đỉnh theo kiểu không hoàn toàn chuyên nghiệp nên càng khâm phục sự nỗ lực của anh. Bởi tôi hiểu, với một thầy giáo về hưu, trên vai là gánh nặng tuổi tác và nhiều thứ áp lực khác nữa, không dễ gì vài ba năm một lần, cho ra đời một tác phẩm phê bình dày dặn, hơn nữa lại được viết một cách rất nghiêm cẩn như anh đã làm được.Với niềm đam mê cháy bỏng và sức làm việc đáng nể mà tôi thấy được ở anh, tôi tin là anh sẽ còn tiến xa hơn và đóng góp được nhiều nữa cho nền phê bình văn chương của nước nhà.
Nói như thế không có nghĩa là đọc anh, tôi hoàn toàn bị chinh phục mà không có chút nào băn khoăn, lấn cấn. Thật ra là cũng có một vài chỗ mà hình như suy nghĩ và cách lý giải một vấn đề nào đó giữa anh và tôi còn có độ “vênh” nhau. Tôi nói là giữa anh và tôi “có độ vênh nhau” chứ không nói là tôi đúng, anh sai hay ngược lại. Ở độ tuổi hơn bảy mươi như tôi bây giờ mà nói ra điều này chắc là đủ để anh tin tôi không phải là kẻ háo thắng.Tôi chỉ muốn nói là có độ vênh nhau ấy, có lẽ là do thế mạnh ở anh chưa được kiểm soát một cách hữu hiệu, hoặc giả là tại tôi loay hoay mà không tìm được lối vào cổng chính của thơ một số nhà thơ đương đại và cũng chưa bắt kịp với “cách đọc mới” như anh từng nói. Điều này thường xảy ra khi tôi đọc loạt bài viết của anh về thơ thiền hay khi nghe anh bàn thảo về thế nào là thơ lục bát hay. Nhưng nói ra điều này bây giờ thì nhiêu khê lắm. Hẹn một khi khác anh em mình có dịp hàn huyên Thuấn nhé!
11-11 2011
Phan Nam Sinh
__________________________________________________________________________
Ghi chú : Phan Nam Sinh là con cụ Phan Khôi
Sáng tác ca khúc, truyện ngắn và phê bình văn chương của Bùi Công Thuấn. Bạn cũng có thể đọc BCT tại http://yume.vn/buicongthuan
Chủ Nhật, 25 tháng 12, 2011
Thứ Ba, 6 tháng 12, 2011
Hội thảo THƠ VIỆT HIỆN ĐẠI NHÌN TỪ MIỀN TRUNG
Hội thảo THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI NHÌN TỪ MIỀN TRUNG
NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN ĐÓ…
Bùi Công Thuấn
Trong 2 ngày 8 và 9-10, tại thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức hội thảo: "Thơ Việt Nam hiện đại, nhìn từ miền Trung” với sự tham dự của gần 140 nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận phê bình hiện đang công tác, sinh sống tại miền Trung và trên mọi miền đất nước. Nhà thơ Hữu Thỉnh, chủ tịch hội Nhà Văn Việt Nam chủ trì hội thảo. Hội thảo này là sáng kiến của Ban thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam. Trước khi diễn ra Hội thảo, ngày 24/8, Hội Nhà văn Việt Nam đã có phiên họp trù bị bàn về nội dung. Theo đó, tính hiện đại của thơ được tính từ Thơ mới đến nay, giới hạn địa lý là từ Thanh Hoá đến Bình Thuận.(1)
1.MỘT “HỘI THẢO MỞ”
Nhà thơ Bằng Việt, chủ tịch Hội Đồng Thơ mở đầu “Đề dẫn” : “Trước tiên, đây là một cuộc hội thảo mở. Nó mở từ ngay chủ đề của nó…Tôi nghĩ, một cuộc hội thảo mở, dù biên độ mở có vẻ hơi trừu tượng và không thật chuẩn về ngữ nghĩa theo những quy luật khắt khe của ngữ pháp, có khi lại là hay, vì nó chứa nhiều khơi gợi, tạo ra nhiều tung hứng. Và nhất là đối với Thơ, thì cái cách mở như vậy càng dễ có thêm nhiều tưởng tượng, nhiều liên tưởng, nhiều so sánh và ẩn dụ. Vậy là yên tâm rồi !.”
Tôi thực sự ngỡ ngàng về lời đề dẫn đầy ngẫu hứng của nhà thơ Bằng Việt, bởi hội thảo là một hoạt đông khoa học về thơ Việt Nam hiện đại, đâu phải hội thảo là nơi nhà thơ tụ tập để làm thơ mà cần đến “khơi gợi, tung hứng, tưởng tượng, so sánh ẩn dụ”. Nhà thơ Bằng Việt biết rõ phạm vi “mở” của cuộc hội thảo này là trừu tượng và không chuẩn về ngữ nghĩa nhưng ông vẫn “yên tâm. Khi hội thảo không đề ra một mục tiêu cụ thể, khi ý thức về chính việc tổ chức hội thảo còn mơ hồ mà ban tổ chức lại yên tâm, thì kết quả hội thảo thế nào đã có thể thấy trước được.
Tôi nghĩ nhiều người sẽ đồng ý với Trần Quang Quý về mục tiêu của hội thảo như thế này. Ông viết:” Tôi nghĩ, chủ đề “Thơ hiện đại Việt Nam nhìn từ miền Trung” là một chủ đề lớn, ..đặc biệt là sự đổi mới thi ca đương đại từ sau 1975 đến nay, ..cần một sự đánh giá công phu, sâu sắc, khách quan… sau một chặng đường dài của thơ Việt, kể từ Thơ mới 1932 - 1945, nhằm thấy được bản diện của thơ Việt trong quá trình xây dựng, bồi đắp những đặc trưng nghệ thuật, khuynh hướng nghệ thuật và giá trị thẩm mỹ, giá trị nhân bản mà thơ đã và đang vươn tới; thực trạng của thơ hôm nay, thơ với công chúng…”
Trong hai ngày hội thảo, đã không có một tham luận nào “đánh giá công phu, sâu sắc, khách quan… sau một chặng đường dài của thơ Việt, kể từ Thơ mới 1932 - 1945, nhằm thấy được bản diện của thơ Việt “như điều mà Trần Quang Quý và bạn đọc mong đợi. Lác đác là những bài điểm tên nhà thơ miền trung cùng với những lời ca ngợi đã quen thuộc, chẳng hạn như :” Xin dừng lại để hồi tưởng những vinh quang thơ Việt, đó là thời điểm cả nước cùng đọc thơ Trần Đăng Khoa, đọc thơ Phạm Tiến Duật, đọc Đất nước, đọc Đường tới thành phố…”; “Tôi yêu thơ chống Mỹ từ thời sinh viên đến mãi bây giờ, cảm nhận được cái tôi sử thi rồi cái tôi sử thi nhạt dần như hiện tại nhưng tôi vẫn không ngừng yêu nó “ ;“Tôi tin khoảng trời miền Trung sẽ lại xuất hiện những tài năng cột trụ cho thơ Việt như thế kỷ vừa qua”; “thơ miền Trung thực sự đã là thơ đổi mới. Nhà thơ Hữu Thỉnh nhận xét: “ Nó đổi mới trước khi có chủ trương đổi mới của văn học” . Quả đúng vậy, Nguyễn Duy đã “đánh thưc tiềm lực” từ lâu…”
2. NHỮNG LẤN CẤN VỀ CHỮ NGHĨA
Theo cách nhìn của ban tổ chức thì khái niệm Thơ Việt hiện đại là tính từ 1930 đến nay. Thế nhưng Ngô Minh lại hiểu rất khác :” Hiện đại có liên quan gì đến bọn tư bản Phương Tây đang rẫy chết không ? Sao lại không “đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc”, mà lại rửng mỡ bàn chuyện hiện đại ?(1) Có sự không rõ ràng trong ý niệm “hiện đại”. Có tham luận nói Thơ Việt hiện đại là để phân biệt với thơ Việt Cận Đại, Cổ đại. Nhiều ý kiến lại nói đến Thơ Việt hôm nay, nghĩa là Thơ Việt từ sau 1975 đến nay. Tôi nghĩ, Thơ Mới đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của nó. Thơ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cũng đã được nghiên cứu và khẳng định giá trị. Nhưng thơ Việt từ 1975 đến nay và nhất là 10 năm đầu của thế kỷ 21 thì chưa được nghiên cứu. Dường như chúng ta cố níu kéo hào quang của quá khứ mà quên sống ở thực tại?
Nguyễn Thanh Mừng nói đến đóng góp của miền Trung về sự hình thành và phát triển tiếng Việt từ Hồ Quý Ly, lê Thánh Tôn..đến A De Rhods …, Tiếp theo dòng văn Nôm rạng rỡ, văn học quốc ngữ ra đời. Sau đó là phong trào Thơ Mới, Tự lực văn đoàn . Ông còn dông dài lần giở những thư tịch cổ nói về miền Trung trong không gian văn hóa Đông Sơn, không gian văn hóa Sa Huỳnh, không gian văn hóa Chăm-pa …Ông còn ngược lịch sử về thời đại Hùng Vương cho đến các triều đại Triệu, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, xác lập” một nước Việt co giãn từ Bắc miền Trung trở ra. Nhưng cũng từ thời Lý trở đi, vai trò “lĩnh ấn tiên phong” đã được xác lập và không ai khác, miền Trung phải gánh lấy sứ mạng ấy”. Phải chăng “nói dông dài “(chữ của Nguyễn Thanh Mừng) như thế mới đúng với yêu cầu của một hội thảo mở về thơ?
Nói thơ Việt hiện đại tính từ Thơ Mới (1930 trở đi) nhưng hầu hết các ý kiến khi nêu vấn đề lại tụ vào thơ thời kháng chiến chống Pháp và Mỹ (Văn Đắc, Vũ Quần Phương, Thạch Quỳ, nhà nghiên cứu Tôn Phương Lan, TS lê Thị Bích Hồng, Vĩnh Nguyên, Thanh Thảo, …) Có rất ít bài viết về thơ hiện nay . Riêng bài của Inrasa về thơ trẻ đương đại viết khá cụ thể, bao quát và có giá trị về mặt theo dõi phong trào. Tại sao có độ lệch như vậy? Điều ấy dễ hiểu, vì hầu hết các nhà thơ đang dự hội thảo đều là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến và họ đã có những thành công ở giai đoạn ấy. Và họ muốn được sống mãi trong vinh quang của thời đại ấy. Nhà thơ Ngô Minh ngạc nhiên :” Điều làm tôi nhạc nhiên là Hội thảo về THƠ HIỆN ĐẠI mà trong hội trường toàn những người đầu bạc, răng long. Người trẻ nhất cũng phải tới bốn năm chục tuổi rồi. … ở đây tịnh không có nhà thơ tuổi đôi mươi nào cả, ai nói cái mới cho mà nghe.”
Nhiều ý kiến nói về yêu cầu đổi mới thơ, nhưng không một tham luận nào nói cụ thể về vấn đế này, cũng không có ý kiến nào cận cảnh về cách tân thơ từ Thơ Mới đến Xuân Thu Nhã Tập rồi Lê Đạt, Trần Dần, Thanh Tâm Tuyền và vác nhà thơ trẻ đương đại. Thậm chí có những ý kiến tỏ ra không hiểu hoặc không muốn cách tân thơ.TS Đào Duy Hiệp đã nói đến ngộ nhận này :” Đổi mới thường bị nhầm với thế sự,…”. (Xin lưu ý, đổi mới khác với cách tân thơ). Ý kiến của nhà thơ Thạch Quỳ có thể là tiêu biểu cho một cách hiểu đã lỗi thời:” Thưa các bạn ! Cái mới trong văn học không bắt nguồn từ sự đổi mới câu chữ, vần vè duy hình thức. Cái mới ở trong con người mới, sức sống mới, tâm hồn mới , trí tuệ mới. Khi con người mang cái mới đầy ắp trong mình thì họ nói lên tiếng nói mới. Hình thức mới trong thơ không phải là thứ hình thức do đầu óc nghĩ ra, vẽ ra, mà do dung lượng cái mới dung nạp trong tâm hồn đã biến thành công năng, nhiệt năng đòi hỏi phải thoát ra ngoài bằng hình thức ấy, theo cách ấy”. Còn nhà thơ Đông Trình lại gạt thẳngvấn đề :” liệu có cần bàn đến hiện đại với hậu hiện đại nữa không? Vì sao thơ chống Pháp hay thế? Có lẽ là tài năng? Người ta để Tâm trên Tài, tôi thì tôi nghĩ ngược lại. Thơ hay, thơ phát triển là nhờ các tài năng. “ Ngô Minh đã mỉa mai sự lấn cấn như thế này :” Nghĩa là thơ ta đang hiện đại, thơ miền Trung đang hiện đại. Nó đã đổi mới, hiện đại từ thời Nguyễn Du tới giờ. Hiện đại trước khi cuộc hội thảo này được tổ chức. Hoan hô thơ miền Trung.”
Xin hỏi rằng thơ kháng chiến khác Thơ Mới ở điều gì? Có phải từ con người mới không ? Xin thưa sự khác biệt là ở ý thức thẩm mỹ mới, ở thi pháp, ở yêu cầu văn chương phục vụ trực tiếp các nhiệm vụ chính trị , phục vụ công, nông binh, chứ không phải xuất phát ở trong con người mới.Hội thảo còn lấn cấn quá nhiều về nội hàm những vấn đề đem ra thảo luận thì sao có thể đi đến những kết luận sáng tỏ?
Lại lấn cấn về địa giới hành chính. Thơ miền trung giới hạn từ Thanh Hoá đến Bình Thuận.Điều này quả thực không ổn, bởi vì, đâu có một nền thơ riêng trong lãnh giới này. Các nhà thơ có thể sinh ra ở miền trung, nhưng tác phẩm của họ vươn tới tầm đất nước, tầm dân tộc, tầm thời đại. Hơn nữa họ hoạt động ở nhiều nơi trên đất nước, đâu cứ gì miền trung. Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Bùi Giáng là những điển hình. Cho nên Hội thảo thơ miền trung, mới có tham luận nói về thơ Thanh Hóa, Tây Nguyên (Văn Đắc, Ts Hỏa Diệu Thúy, Hữu Kim,..). Vĩnh Nguyên thì điểm tên các nhà thơ Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Huế. Mai Văn Hoan thì nói về thơ Thạch Quỳ, Thanh Thảo thì nói về thơ Nguyễn Khoa Điềm…Cứ theo đà này thì phải kể tất cả các nhà thơ ở Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận. Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng…Sẽ chẳng có một hội thảo nào đủ sức làm như thế, và dẫu có làm như thế cũng chẳng ích gì cho sự phát triển của thơ ca.
3. NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN ĐÓ…
Có ý kiến đánh giá về nhà thơ, nhà văn Việt Nam thế này:” trình độ văn hóa của văn nghệ sĩ Việt Nam ở mức lè tè thế này, một lần ngồi xem ti vi, nhìn cảnh các văn nghệ sĩ Việt mặc quần áo lôm côm, sắn áo dài tay, đi giầy thể thao… một anh bạn có nói, mọi người nhìn đi, những cầu thủ nước ngoài lên lĩnh giải thưởng, họ vận com lê đồng bộ đàng hoàng, vậy mà ở đây chúng ta toàn nghệ sĩ tên tuổi “nhớn” lại ăn mặc ba vạ, lôm côm, tùy tiện như vậy, thử hỏi văn hóa của văn nghệ sĩ chúng ta ở mức nào?(3) Sao lại có thể lấy việc mặc quần áo để đánh giá trình độ trí thức của văn nghệ sĩ Việt ?! Sao lại đi so sánh cầu thủ với nhà thơ là văn. Ý rằng vì trình độ nhà thơ nhà văn Việt Nam ở mức lè tè nên “thơ của chúng ta èo uột, làng nhàng, thiếu bứt phá, thiếu thăng hoa”. Tác giả của ý kiến này còn đi đến nhận định, chung quy sự yếu kém của văn chương Việt là do tiếng Việt lỏng lẻo và phẩm chất “hời hợt, dễ dãi, tùy tiện và buông thả, nhiều khi thiếu trách nhiệm của trí thức Việt”. Ông đề xuất :“Muốn trở thành nhà thơ lớn cũng như nền thơ lớn hiển nhiên chúng ta phải nhảy vọt qua 2 đặc điểm khiếm khuyết của ngôn ngữ tiếng Việt như đã trình bày ở trên.”
Tôi nghĩ, những ngoa ngôn kiểu này chỉ để gây sự chú ý đối với người nghe. Nó hoàn toàn chủ quan, hàm hồ và “thiếu trách nhiệm” với hội thảo, ấy là chưa nói đến sự xúc phạm đối với nhà thơ nhà văn VN.
Nhà thơ Hữu Thỉnh đã nêu ra một vấn đề còn bỏ ngỏ khi tổng kết hội thảo :” Thơ đang có vấn đề và cần đổi mới nó”. Đó là tình trạng vè hóa thơ (Nguyễn Trọng Tạo), “thơ của chúng ta èo uột, làng nhàng, thiếu bứt phá, thiếu thăng hoa”(Nguyễn Hoàng Đức), “Cái khó mà thơ lâm phải hiện nay là thời kỳ giáp hạt tư tưởng, sự khủng hoảng của nó cũng do đó mà ra.”(Vũ Quần Phương), “thơ đang mất chỗ đứng trong ồ ạt của cạnh tranh thị trường… Nhiều bài thơ nhợt nhạt, quanh quẩn, ngô nghê, được viết với một trạng thái vô cảm… thơ Việt đang trong cơn bĩ cực trên cả hai phương diện chủ quan và khách quan”(Lê Thành Nghị),” Sự kiện thơ ca mất giá như thế diễn tiến qua nhiều năm”(Nguyễn Chí Hoan). .
Những ý kiến trên hoàn toàn trái ngược với những bài tụng ca về thành tựu chót vót của thơ miền trung. Vấn đề là không một tham luận nào chỉ ra được làm thế nào để vực dậy thơ Việt đang trong cơn khủng hoảng, đang trong cơn bĩ cực, đang mất chỗ đứng trong lòng công chúng, “thơ đang ở thời kỳ hỗn mang “(Trần Quang Quý). Đây đó có chỉ ra vài nguyên nhân. Nguyễn Hoàng Đức thì cho rằng vì tiếng Việt lỏng lẻo, trình độ văn hóa của văn nghệ sĩ Việt Nam ở mức lè tè nên thơ Việt èo uột.Nguyễn Trọng Tạo thì cho rằng nguyên nhân là từ ” sự thiếu hiểu biết, sự ngộ nhận non nớt của nhà thơ trước ma trận của cái mới luôn mai phục ở phía trước”. Nguyễn Chí Hoan cho rằng ngôn ngữ thời đại là một cản trở:” Đặc trưng của bối cảnh mới là ngôn ngữ dưới các dạng thức từ chương trở thành một loại hàng hoá.Ngôn ngữ từ chương dần dà không tránh khỏi biểu thị tính thực dụng thực tế mới của thời buổi , của truyền thông đại chúng với ba phẩm chất căn bản thông tin-giải trí-quảng cáo, của văn hoá đại chúng với các khoái cảm ngôn từ thông tục, cảm tính, dễ dãi và lặp đi lặp lại.Thực tế là thơ ca thẩm thấu vào mình toàn bộ sức ép từ cái phông ngôn ngữ hỗn tạp đó, chưa kể sức ép từ các chuỗi sự kiện hình ảnh”
Về đổi mới thơ hiện nay, nhà phê bình Lê Thành Nghị cho rằng, “đổi mới thơ bằng cách nào là một ẩn số “, còn TS Đào Duy Hiệp trở lại cách nhìn duy tâm :” Vấn đề ở trời cho”. Nhà thơ Đông Trình cũng một ý như vậy :” Thơ hay, thơ phát triển là nhờ các tài năng”. Nhà thơ Phạm Đức thì xổ toẹt :” Nói A cách tân, B bảo thủ là cách nói lừa trẻ con; thơ mỗi bài là một đổi mới, bài sau khác bài trước… bất biết anh viết nó bằng cách nào, nó chỉ cần vào tôi là được.”Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thì nhấn mạnh :” Thơ ca phải lên tiếng, phải đến với vấn đề nhân cách cá nhân, phẩm cách của dân tộc và phải tự mình trở thành nhân cách.”
Trong những ý kiến trên, không khỏi có những chỗ chưa rạch ròi về “đổi mới” thơ và cách tân thơ. Nếu nói đổi mới là bài thơ sau khác bài thơ trước, thì đó không phải là cách tân. Đó là quy luật của sự sáng tạo. Sáng tạo là không lặp lại, là khám phá ra cái mới. Nhà thơ không sáng tạo thì đồng nghĩa với nhà thơ đã chết.Và sự vượt qua chính mình là điều khó nhất đối với hành trình sáng tạo của nhà thơ.
Nói cách tân một nền thơ, một thời đại thơ là nói sự thay đổi hoàn toàn về ý thức thẩm mỹ, về thi pháp và về mục đích sáng tác, vai trò xã hội của thi ca. Thơ Mới được viết bằng bút pháp của Chủ Nghĩa Lãng Mạn, lấy cái tôi cá nhân chủ nghĩa làm trung tâm, lấy sự thể hiện cảm xúc và suy nghĩ cá nhân làm nội dung, nhân vật trữ tình trong Thơ Mới là nhân vật tâm trạng, hình thức thơ thường là 7 chữ, 8 chữ. Thơ kháng chiến thay đổi hẳn về lý tưởng thẩm mỹ. Đó là nền thơ lấy công, nông ,binh làm nhân vật trung tâm, lấy bút pháp Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa làm phương pháp sáng tác (Miêu tả hiện thực cách mạng kết hợp với lãng mạn cách mạng thông qua điển hình hóa), lấy việc phục vụ trực tiếp nhiệm vụ chính trị làm mục đích. Thơ hướng về quần chúng mà kêu gọi, động viên chiến đấu, sản xuất, thơ tập trung ca ngợi cái mới, con người mới (thử so sánh Khi Chiều Giăng Lưới của Xuân Diệu với Tiểu Đội Xe Không Kính của Phạm Tiến Duật). Rõ ràng muốn cách tân thơ thì phải xuất phát từ sự đổi mới tư duy nghệ thuật. Ta hiểu ra thơ hiện nay rất cũ vì nhiều bài thơ vẫn được viết bằng thi pháp Thơ Lãng Mạn hay thi pháp thơ kháng chiến.
Những nỗ lực cách tân thơ Việt đã diễn ra mạnh mẽ, nhưng chưa có thành tựu đáng kể. Trần Dần, Lê Đạt tập trung vào cách tân hình thức câu, chữ. Thanh Tâm Tuyền sử dụng “dòng ý thức” của văn chương Hiện Sinh. Khế Yêm , Đỗ Quyên thể nghiệm thơ Tân Hình Thức. Các nhà thơ trẻ hiện nay (Văn Cầm Hải, Nguyễn Thúy Hằng, Ly Hoàng Ly, Lê Vĩnh tài…) đang khám phá thủ pháp Hậu Hiện Đại. Ít nhiều những thể nghiệm ấy cũng có những bài đứng được, đủ sức đánh dấu như cột mốc của sự phát triển.
Hãy lấy thí dụ, thơ “dòng ý thức” của Thanh tâm Tuyền khác hẳn với thơ Lãng Mạn ở chỗ, thơ lãng mạn là dòng tâm trạng, cón thơ Thanh Tâm Tuyến là “dòng ý thức”(Xin đọc Tương Tư của Nguyễn Bính và Tĩnh Vật của Thanh Tâm Tuyền). Cũng vậy, Thơ Tân Hình Thức quan trọng ở cách vắt dòng, ở câu chuyện được kể, ở những vòng lặp và cách đọc vừa là thơ, vừa như văn xuôi (xin đọc : Tân Hình Thức và Câu Chuyện Kể của Khế Yêm, Tay Trái Thơ Tay Phải Núi của Đỗ Quyên). Thơ Hậu Hiện Đại phá vỡ những yếu tố cơ bản của “thơ truyền thống” là không gian, thời gian, nhân vật, cốt truyện. Nhà thơ đưa vào những yếu tố ngẫu nhiên, hoang tưởng. Hiện thực được miêu tả là những mảnh rời rạc. Nhà thơ lật đổ những Đại Tự Sự. Hậu Hiện Đại còn “giải thiêng” và phi tâm hóa…(xin đọc Hoe Chân Lời, Sinh Tồn của Văn Cầm Hải). Ý thức thẩm mỹ của nhà thơ Hậu Hiện Đại khác hẳn với nhà “thơ truyền thống”. Inrasara nhận định thế này : “Thơ tuôn tràn tự nhiên như nói, như thở, như ăn, uống, làm tình. Vậy thôi. Không có gì trầm trọng cả.”, ” Thời đại khác, quan điểm thơ cũng khác vừa viết vừa tự khám phá chính mình. Khám phá mình ngay trong hành động viết và qua quá trình viết. Chuyển động và thay đổi. Họ viết - thế thôi. Liên tục chuyển động và thay đổi. Không nhiều nhà phê bình nhận ra điều đó. Rất ít nhà phê bình theo kịp sự chuyển động của họ. Không theo kịp, nhà phê bình mãi ở lại căn chòi mĩ học cũ để nhìn về thơ đương đại, nhận định và phán xét nó.Tiếc thay.”
Tôi nghĩ rằng bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam và thế giới thế kỷ XXI đã hoàn toàn khác với thời kỳ bao cấp trong kháng chiến. Ý thức thẩm mỹ của thời đại cũng đã khác. Muốn cách tân thơ phải xuất phát từ sự đổi mới ý thức thẩm mỹ. Đây là điều cốt tử. Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật nhận rõ điều này: “không thể chấp theo lối cũ. Thơ ca nghệ thuật không thể nằm ngoài chân lý ấy.Thế nhưng sau bao năm đổi mới, nền thơ Việt dường như vẫn quằn quã trong cái ngôi làng lặng yên. Chúng ta phải tự nhận ra rằng chúng ta tự trói lấy chúng ta, bảo thủ, tự bằng lòng thoả mãn với những gì có được.”, Ấy là chúng ta quen với lối mòn thi pháp của thơ kháng chiến viết bằng phương pháp Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa, quen với cách sinh hoạt thơ như thời bao cấp. Nhà thơ đi dự hội nghị được tỉnh cấp kinh phí. “Hội thảo 2 ngày mà có tới ba cuộc tiệc lớn : Tỉnh ủy Thanh Hóa đãi, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thanh Hóa đãi, Hội Nhà văn Việt Nam đãi. Bia rượu vui vẻ.”(Ngô Minh). Nhiều nhà thơ và bạn đọc quen với ý thức thẩm mỹ cũ,vẫn giữ cách nhìn văn chương quan điểm văn chương thời bao cấp, và vì thế sự cách tân thơ đối với họ là điều vô bổ. Nhà phê bình Nguyễn Chí Hoan có một nhận xét rất xác đáng thế này :” sự hoàn chỉnh về hệ thống đó cũng là một rào cản, đặc biệt với những cái-tai-bên-trong, con-mắt-bên-trong của nhiều thế hệ độc giả cũng như tác giả đã hoàn toàn quen với khu vực đặc trưng nhất của không gian ngôn ngữ mà hệ thống kia dựng lên – khu vực của lãng mạn và kỹ xảo tu từ - coi như phạm trù và quan niệm về thơ ( - mà không hề tính đến các cực trị không gian đó đã đạt tới và do vậy đã gợi mở - ) , đến mức nếu ai đó vượt ra để làm khác đi thì sẽ không còn thơ nữa”
Để trả lời cho những lời kêu gọi khẩn thiết về tình trạng thơ khủng hoảng, đang trong cơn bĩ cực, đang mất chỗ đứng trong lòng công chúng, “thơ đang ở thời kỳ hỗn mang, tôi xin mượn ý của nhà thơ Hoàng Vũ Thuật rằng , nhà thơ không thể chấp theo lối cũ, hãy tự cởi trói khỏi sự bảo thủ của ý thức sáng tạo và thói quen sinh hoạt cũ, bởi vì Nghị quyết 23 của Bộ Chính Trị cũng đã mở đường rồi. Nghị quyết ghi rõ :” Tôn trọng, đảm bảo quyền tự do sáng tạo, tạo điều kiện thuận lợi phát huy tính độc lập, khơi dậy mọi nguồn lực sáng tạo của văn nghệ sĩ… tiếp tục đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của văn học, nghệ thuật về đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp sáng tác, sự tìm tòi, thể nghiệm, nâng cao chất lượng toàn diện nền văn học, nghệ thuật nước nhà. “
Những vấn đề do hội thảo Thơ Việt Nam hiện đại nhìn từ miền trung đặt ra vẫn đang là thách thức với mọi nhà thơ. Chưa có câu trả lời cho con đường đi tới phía trước? Chỉ cần 15 năm (1930-1945) Thơ Việt Nam có hẳn một thời đại mới, vậy mà từ 1975 đến nay, đã 35 năm, Thơ Việt Nam đã có những thành tựu gì ? Dường như bạn đọc yêu thơ đã không còn đủ kiên nhẫn để chờ đợi…
12.2011
_____________________________________________
(1) Bài viết này dựa trên bản tin và kỷ yếu của Hội Nhà Văn về Hội thảo Thơ Việt hiện đại nhìn từ miền trung đăng trên http://vanvn.net
(2) Ngô Minh (http://ngominhblog.wordpress.com/2011/10/11/th%C6%A1-nghiem-tr%E1%BB%8Dng-th%E1%BA%ADt/)
(3) Nguyễn Hoàng Đức-Không thể có thơ hay nếu không có sinh hoạt thơ lành mạnh
Bài này đăng trên trang web của Hội Nhà Văn 3.12.2011: http://vanvn.net/news/11/1315-hoi-thao-tho-viet-nam-hien-dai-nhin-tu-mien-trung-nhung-van-de-con-do.html
(4)
NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN ĐÓ…
Bùi Công Thuấn
Trong 2 ngày 8 và 9-10, tại thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức hội thảo: "Thơ Việt Nam hiện đại, nhìn từ miền Trung” với sự tham dự của gần 140 nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận phê bình hiện đang công tác, sinh sống tại miền Trung và trên mọi miền đất nước. Nhà thơ Hữu Thỉnh, chủ tịch hội Nhà Văn Việt Nam chủ trì hội thảo. Hội thảo này là sáng kiến của Ban thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam. Trước khi diễn ra Hội thảo, ngày 24/8, Hội Nhà văn Việt Nam đã có phiên họp trù bị bàn về nội dung. Theo đó, tính hiện đại của thơ được tính từ Thơ mới đến nay, giới hạn địa lý là từ Thanh Hoá đến Bình Thuận.(1)
1.MỘT “HỘI THẢO MỞ”
Nhà thơ Bằng Việt, chủ tịch Hội Đồng Thơ mở đầu “Đề dẫn” : “Trước tiên, đây là một cuộc hội thảo mở. Nó mở từ ngay chủ đề của nó…Tôi nghĩ, một cuộc hội thảo mở, dù biên độ mở có vẻ hơi trừu tượng và không thật chuẩn về ngữ nghĩa theo những quy luật khắt khe của ngữ pháp, có khi lại là hay, vì nó chứa nhiều khơi gợi, tạo ra nhiều tung hứng. Và nhất là đối với Thơ, thì cái cách mở như vậy càng dễ có thêm nhiều tưởng tượng, nhiều liên tưởng, nhiều so sánh và ẩn dụ. Vậy là yên tâm rồi !.”
Tôi thực sự ngỡ ngàng về lời đề dẫn đầy ngẫu hứng của nhà thơ Bằng Việt, bởi hội thảo là một hoạt đông khoa học về thơ Việt Nam hiện đại, đâu phải hội thảo là nơi nhà thơ tụ tập để làm thơ mà cần đến “khơi gợi, tung hứng, tưởng tượng, so sánh ẩn dụ”. Nhà thơ Bằng Việt biết rõ phạm vi “mở” của cuộc hội thảo này là trừu tượng và không chuẩn về ngữ nghĩa nhưng ông vẫn “yên tâm. Khi hội thảo không đề ra một mục tiêu cụ thể, khi ý thức về chính việc tổ chức hội thảo còn mơ hồ mà ban tổ chức lại yên tâm, thì kết quả hội thảo thế nào đã có thể thấy trước được.
Tôi nghĩ nhiều người sẽ đồng ý với Trần Quang Quý về mục tiêu của hội thảo như thế này. Ông viết:” Tôi nghĩ, chủ đề “Thơ hiện đại Việt Nam nhìn từ miền Trung” là một chủ đề lớn, ..đặc biệt là sự đổi mới thi ca đương đại từ sau 1975 đến nay, ..cần một sự đánh giá công phu, sâu sắc, khách quan… sau một chặng đường dài của thơ Việt, kể từ Thơ mới 1932 - 1945, nhằm thấy được bản diện của thơ Việt trong quá trình xây dựng, bồi đắp những đặc trưng nghệ thuật, khuynh hướng nghệ thuật và giá trị thẩm mỹ, giá trị nhân bản mà thơ đã và đang vươn tới; thực trạng của thơ hôm nay, thơ với công chúng…”
Trong hai ngày hội thảo, đã không có một tham luận nào “đánh giá công phu, sâu sắc, khách quan… sau một chặng đường dài của thơ Việt, kể từ Thơ mới 1932 - 1945, nhằm thấy được bản diện của thơ Việt “như điều mà Trần Quang Quý và bạn đọc mong đợi. Lác đác là những bài điểm tên nhà thơ miền trung cùng với những lời ca ngợi đã quen thuộc, chẳng hạn như :” Xin dừng lại để hồi tưởng những vinh quang thơ Việt, đó là thời điểm cả nước cùng đọc thơ Trần Đăng Khoa, đọc thơ Phạm Tiến Duật, đọc Đất nước, đọc Đường tới thành phố…”; “Tôi yêu thơ chống Mỹ từ thời sinh viên đến mãi bây giờ, cảm nhận được cái tôi sử thi rồi cái tôi sử thi nhạt dần như hiện tại nhưng tôi vẫn không ngừng yêu nó “ ;“Tôi tin khoảng trời miền Trung sẽ lại xuất hiện những tài năng cột trụ cho thơ Việt như thế kỷ vừa qua”; “thơ miền Trung thực sự đã là thơ đổi mới. Nhà thơ Hữu Thỉnh nhận xét: “ Nó đổi mới trước khi có chủ trương đổi mới của văn học” . Quả đúng vậy, Nguyễn Duy đã “đánh thưc tiềm lực” từ lâu…”
2. NHỮNG LẤN CẤN VỀ CHỮ NGHĨA
Theo cách nhìn của ban tổ chức thì khái niệm Thơ Việt hiện đại là tính từ 1930 đến nay. Thế nhưng Ngô Minh lại hiểu rất khác :” Hiện đại có liên quan gì đến bọn tư bản Phương Tây đang rẫy chết không ? Sao lại không “đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc”, mà lại rửng mỡ bàn chuyện hiện đại ?(1) Có sự không rõ ràng trong ý niệm “hiện đại”. Có tham luận nói Thơ Việt hiện đại là để phân biệt với thơ Việt Cận Đại, Cổ đại. Nhiều ý kiến lại nói đến Thơ Việt hôm nay, nghĩa là Thơ Việt từ sau 1975 đến nay. Tôi nghĩ, Thơ Mới đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của nó. Thơ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cũng đã được nghiên cứu và khẳng định giá trị. Nhưng thơ Việt từ 1975 đến nay và nhất là 10 năm đầu của thế kỷ 21 thì chưa được nghiên cứu. Dường như chúng ta cố níu kéo hào quang của quá khứ mà quên sống ở thực tại?
Nguyễn Thanh Mừng nói đến đóng góp của miền Trung về sự hình thành và phát triển tiếng Việt từ Hồ Quý Ly, lê Thánh Tôn..đến A De Rhods …, Tiếp theo dòng văn Nôm rạng rỡ, văn học quốc ngữ ra đời. Sau đó là phong trào Thơ Mới, Tự lực văn đoàn . Ông còn dông dài lần giở những thư tịch cổ nói về miền Trung trong không gian văn hóa Đông Sơn, không gian văn hóa Sa Huỳnh, không gian văn hóa Chăm-pa …Ông còn ngược lịch sử về thời đại Hùng Vương cho đến các triều đại Triệu, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, xác lập” một nước Việt co giãn từ Bắc miền Trung trở ra. Nhưng cũng từ thời Lý trở đi, vai trò “lĩnh ấn tiên phong” đã được xác lập và không ai khác, miền Trung phải gánh lấy sứ mạng ấy”. Phải chăng “nói dông dài “(chữ của Nguyễn Thanh Mừng) như thế mới đúng với yêu cầu của một hội thảo mở về thơ?
Nói thơ Việt hiện đại tính từ Thơ Mới (1930 trở đi) nhưng hầu hết các ý kiến khi nêu vấn đề lại tụ vào thơ thời kháng chiến chống Pháp và Mỹ (Văn Đắc, Vũ Quần Phương, Thạch Quỳ, nhà nghiên cứu Tôn Phương Lan, TS lê Thị Bích Hồng, Vĩnh Nguyên, Thanh Thảo, …) Có rất ít bài viết về thơ hiện nay . Riêng bài của Inrasa về thơ trẻ đương đại viết khá cụ thể, bao quát và có giá trị về mặt theo dõi phong trào. Tại sao có độ lệch như vậy? Điều ấy dễ hiểu, vì hầu hết các nhà thơ đang dự hội thảo đều là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến và họ đã có những thành công ở giai đoạn ấy. Và họ muốn được sống mãi trong vinh quang của thời đại ấy. Nhà thơ Ngô Minh ngạc nhiên :” Điều làm tôi nhạc nhiên là Hội thảo về THƠ HIỆN ĐẠI mà trong hội trường toàn những người đầu bạc, răng long. Người trẻ nhất cũng phải tới bốn năm chục tuổi rồi. … ở đây tịnh không có nhà thơ tuổi đôi mươi nào cả, ai nói cái mới cho mà nghe.”
Nhiều ý kiến nói về yêu cầu đổi mới thơ, nhưng không một tham luận nào nói cụ thể về vấn đế này, cũng không có ý kiến nào cận cảnh về cách tân thơ từ Thơ Mới đến Xuân Thu Nhã Tập rồi Lê Đạt, Trần Dần, Thanh Tâm Tuyền và vác nhà thơ trẻ đương đại. Thậm chí có những ý kiến tỏ ra không hiểu hoặc không muốn cách tân thơ.TS Đào Duy Hiệp đã nói đến ngộ nhận này :” Đổi mới thường bị nhầm với thế sự,…”. (Xin lưu ý, đổi mới khác với cách tân thơ). Ý kiến của nhà thơ Thạch Quỳ có thể là tiêu biểu cho một cách hiểu đã lỗi thời:” Thưa các bạn ! Cái mới trong văn học không bắt nguồn từ sự đổi mới câu chữ, vần vè duy hình thức. Cái mới ở trong con người mới, sức sống mới, tâm hồn mới , trí tuệ mới. Khi con người mang cái mới đầy ắp trong mình thì họ nói lên tiếng nói mới. Hình thức mới trong thơ không phải là thứ hình thức do đầu óc nghĩ ra, vẽ ra, mà do dung lượng cái mới dung nạp trong tâm hồn đã biến thành công năng, nhiệt năng đòi hỏi phải thoát ra ngoài bằng hình thức ấy, theo cách ấy”. Còn nhà thơ Đông Trình lại gạt thẳngvấn đề :” liệu có cần bàn đến hiện đại với hậu hiện đại nữa không? Vì sao thơ chống Pháp hay thế? Có lẽ là tài năng? Người ta để Tâm trên Tài, tôi thì tôi nghĩ ngược lại. Thơ hay, thơ phát triển là nhờ các tài năng. “ Ngô Minh đã mỉa mai sự lấn cấn như thế này :” Nghĩa là thơ ta đang hiện đại, thơ miền Trung đang hiện đại. Nó đã đổi mới, hiện đại từ thời Nguyễn Du tới giờ. Hiện đại trước khi cuộc hội thảo này được tổ chức. Hoan hô thơ miền Trung.”
Xin hỏi rằng thơ kháng chiến khác Thơ Mới ở điều gì? Có phải từ con người mới không ? Xin thưa sự khác biệt là ở ý thức thẩm mỹ mới, ở thi pháp, ở yêu cầu văn chương phục vụ trực tiếp các nhiệm vụ chính trị , phục vụ công, nông binh, chứ không phải xuất phát ở trong con người mới.Hội thảo còn lấn cấn quá nhiều về nội hàm những vấn đề đem ra thảo luận thì sao có thể đi đến những kết luận sáng tỏ?
Lại lấn cấn về địa giới hành chính. Thơ miền trung giới hạn từ Thanh Hoá đến Bình Thuận.Điều này quả thực không ổn, bởi vì, đâu có một nền thơ riêng trong lãnh giới này. Các nhà thơ có thể sinh ra ở miền trung, nhưng tác phẩm của họ vươn tới tầm đất nước, tầm dân tộc, tầm thời đại. Hơn nữa họ hoạt động ở nhiều nơi trên đất nước, đâu cứ gì miền trung. Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Bùi Giáng là những điển hình. Cho nên Hội thảo thơ miền trung, mới có tham luận nói về thơ Thanh Hóa, Tây Nguyên (Văn Đắc, Ts Hỏa Diệu Thúy, Hữu Kim,..). Vĩnh Nguyên thì điểm tên các nhà thơ Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Huế. Mai Văn Hoan thì nói về thơ Thạch Quỳ, Thanh Thảo thì nói về thơ Nguyễn Khoa Điềm…Cứ theo đà này thì phải kể tất cả các nhà thơ ở Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận. Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng…Sẽ chẳng có một hội thảo nào đủ sức làm như thế, và dẫu có làm như thế cũng chẳng ích gì cho sự phát triển của thơ ca.
3. NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN ĐÓ…
Có ý kiến đánh giá về nhà thơ, nhà văn Việt Nam thế này:” trình độ văn hóa của văn nghệ sĩ Việt Nam ở mức lè tè thế này, một lần ngồi xem ti vi, nhìn cảnh các văn nghệ sĩ Việt mặc quần áo lôm côm, sắn áo dài tay, đi giầy thể thao… một anh bạn có nói, mọi người nhìn đi, những cầu thủ nước ngoài lên lĩnh giải thưởng, họ vận com lê đồng bộ đàng hoàng, vậy mà ở đây chúng ta toàn nghệ sĩ tên tuổi “nhớn” lại ăn mặc ba vạ, lôm côm, tùy tiện như vậy, thử hỏi văn hóa của văn nghệ sĩ chúng ta ở mức nào?(3) Sao lại có thể lấy việc mặc quần áo để đánh giá trình độ trí thức của văn nghệ sĩ Việt ?! Sao lại đi so sánh cầu thủ với nhà thơ là văn. Ý rằng vì trình độ nhà thơ nhà văn Việt Nam ở mức lè tè nên “thơ của chúng ta èo uột, làng nhàng, thiếu bứt phá, thiếu thăng hoa”. Tác giả của ý kiến này còn đi đến nhận định, chung quy sự yếu kém của văn chương Việt là do tiếng Việt lỏng lẻo và phẩm chất “hời hợt, dễ dãi, tùy tiện và buông thả, nhiều khi thiếu trách nhiệm của trí thức Việt”. Ông đề xuất :“Muốn trở thành nhà thơ lớn cũng như nền thơ lớn hiển nhiên chúng ta phải nhảy vọt qua 2 đặc điểm khiếm khuyết của ngôn ngữ tiếng Việt như đã trình bày ở trên.”
Tôi nghĩ, những ngoa ngôn kiểu này chỉ để gây sự chú ý đối với người nghe. Nó hoàn toàn chủ quan, hàm hồ và “thiếu trách nhiệm” với hội thảo, ấy là chưa nói đến sự xúc phạm đối với nhà thơ nhà văn VN.
Nhà thơ Hữu Thỉnh đã nêu ra một vấn đề còn bỏ ngỏ khi tổng kết hội thảo :” Thơ đang có vấn đề và cần đổi mới nó”. Đó là tình trạng vè hóa thơ (Nguyễn Trọng Tạo), “thơ của chúng ta èo uột, làng nhàng, thiếu bứt phá, thiếu thăng hoa”(Nguyễn Hoàng Đức), “Cái khó mà thơ lâm phải hiện nay là thời kỳ giáp hạt tư tưởng, sự khủng hoảng của nó cũng do đó mà ra.”(Vũ Quần Phương), “thơ đang mất chỗ đứng trong ồ ạt của cạnh tranh thị trường… Nhiều bài thơ nhợt nhạt, quanh quẩn, ngô nghê, được viết với một trạng thái vô cảm… thơ Việt đang trong cơn bĩ cực trên cả hai phương diện chủ quan và khách quan”(Lê Thành Nghị),” Sự kiện thơ ca mất giá như thế diễn tiến qua nhiều năm”(Nguyễn Chí Hoan). .
Những ý kiến trên hoàn toàn trái ngược với những bài tụng ca về thành tựu chót vót của thơ miền trung. Vấn đề là không một tham luận nào chỉ ra được làm thế nào để vực dậy thơ Việt đang trong cơn khủng hoảng, đang trong cơn bĩ cực, đang mất chỗ đứng trong lòng công chúng, “thơ đang ở thời kỳ hỗn mang “(Trần Quang Quý). Đây đó có chỉ ra vài nguyên nhân. Nguyễn Hoàng Đức thì cho rằng vì tiếng Việt lỏng lẻo, trình độ văn hóa của văn nghệ sĩ Việt Nam ở mức lè tè nên thơ Việt èo uột.Nguyễn Trọng Tạo thì cho rằng nguyên nhân là từ ” sự thiếu hiểu biết, sự ngộ nhận non nớt của nhà thơ trước ma trận của cái mới luôn mai phục ở phía trước”. Nguyễn Chí Hoan cho rằng ngôn ngữ thời đại là một cản trở:” Đặc trưng của bối cảnh mới là ngôn ngữ dưới các dạng thức từ chương trở thành một loại hàng hoá.Ngôn ngữ từ chương dần dà không tránh khỏi biểu thị tính thực dụng thực tế mới của thời buổi , của truyền thông đại chúng với ba phẩm chất căn bản thông tin-giải trí-quảng cáo, của văn hoá đại chúng với các khoái cảm ngôn từ thông tục, cảm tính, dễ dãi và lặp đi lặp lại.Thực tế là thơ ca thẩm thấu vào mình toàn bộ sức ép từ cái phông ngôn ngữ hỗn tạp đó, chưa kể sức ép từ các chuỗi sự kiện hình ảnh”
Về đổi mới thơ hiện nay, nhà phê bình Lê Thành Nghị cho rằng, “đổi mới thơ bằng cách nào là một ẩn số “, còn TS Đào Duy Hiệp trở lại cách nhìn duy tâm :” Vấn đề ở trời cho”. Nhà thơ Đông Trình cũng một ý như vậy :” Thơ hay, thơ phát triển là nhờ các tài năng”. Nhà thơ Phạm Đức thì xổ toẹt :” Nói A cách tân, B bảo thủ là cách nói lừa trẻ con; thơ mỗi bài là một đổi mới, bài sau khác bài trước… bất biết anh viết nó bằng cách nào, nó chỉ cần vào tôi là được.”Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thì nhấn mạnh :” Thơ ca phải lên tiếng, phải đến với vấn đề nhân cách cá nhân, phẩm cách của dân tộc và phải tự mình trở thành nhân cách.”
Trong những ý kiến trên, không khỏi có những chỗ chưa rạch ròi về “đổi mới” thơ và cách tân thơ. Nếu nói đổi mới là bài thơ sau khác bài thơ trước, thì đó không phải là cách tân. Đó là quy luật của sự sáng tạo. Sáng tạo là không lặp lại, là khám phá ra cái mới. Nhà thơ không sáng tạo thì đồng nghĩa với nhà thơ đã chết.Và sự vượt qua chính mình là điều khó nhất đối với hành trình sáng tạo của nhà thơ.
Nói cách tân một nền thơ, một thời đại thơ là nói sự thay đổi hoàn toàn về ý thức thẩm mỹ, về thi pháp và về mục đích sáng tác, vai trò xã hội của thi ca. Thơ Mới được viết bằng bút pháp của Chủ Nghĩa Lãng Mạn, lấy cái tôi cá nhân chủ nghĩa làm trung tâm, lấy sự thể hiện cảm xúc và suy nghĩ cá nhân làm nội dung, nhân vật trữ tình trong Thơ Mới là nhân vật tâm trạng, hình thức thơ thường là 7 chữ, 8 chữ. Thơ kháng chiến thay đổi hẳn về lý tưởng thẩm mỹ. Đó là nền thơ lấy công, nông ,binh làm nhân vật trung tâm, lấy bút pháp Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa làm phương pháp sáng tác (Miêu tả hiện thực cách mạng kết hợp với lãng mạn cách mạng thông qua điển hình hóa), lấy việc phục vụ trực tiếp nhiệm vụ chính trị làm mục đích. Thơ hướng về quần chúng mà kêu gọi, động viên chiến đấu, sản xuất, thơ tập trung ca ngợi cái mới, con người mới (thử so sánh Khi Chiều Giăng Lưới của Xuân Diệu với Tiểu Đội Xe Không Kính của Phạm Tiến Duật). Rõ ràng muốn cách tân thơ thì phải xuất phát từ sự đổi mới tư duy nghệ thuật. Ta hiểu ra thơ hiện nay rất cũ vì nhiều bài thơ vẫn được viết bằng thi pháp Thơ Lãng Mạn hay thi pháp thơ kháng chiến.
Những nỗ lực cách tân thơ Việt đã diễn ra mạnh mẽ, nhưng chưa có thành tựu đáng kể. Trần Dần, Lê Đạt tập trung vào cách tân hình thức câu, chữ. Thanh Tâm Tuyền sử dụng “dòng ý thức” của văn chương Hiện Sinh. Khế Yêm , Đỗ Quyên thể nghiệm thơ Tân Hình Thức. Các nhà thơ trẻ hiện nay (Văn Cầm Hải, Nguyễn Thúy Hằng, Ly Hoàng Ly, Lê Vĩnh tài…) đang khám phá thủ pháp Hậu Hiện Đại. Ít nhiều những thể nghiệm ấy cũng có những bài đứng được, đủ sức đánh dấu như cột mốc của sự phát triển.
Hãy lấy thí dụ, thơ “dòng ý thức” của Thanh tâm Tuyền khác hẳn với thơ Lãng Mạn ở chỗ, thơ lãng mạn là dòng tâm trạng, cón thơ Thanh Tâm Tuyến là “dòng ý thức”(Xin đọc Tương Tư của Nguyễn Bính và Tĩnh Vật của Thanh Tâm Tuyền). Cũng vậy, Thơ Tân Hình Thức quan trọng ở cách vắt dòng, ở câu chuyện được kể, ở những vòng lặp và cách đọc vừa là thơ, vừa như văn xuôi (xin đọc : Tân Hình Thức và Câu Chuyện Kể của Khế Yêm, Tay Trái Thơ Tay Phải Núi của Đỗ Quyên). Thơ Hậu Hiện Đại phá vỡ những yếu tố cơ bản của “thơ truyền thống” là không gian, thời gian, nhân vật, cốt truyện. Nhà thơ đưa vào những yếu tố ngẫu nhiên, hoang tưởng. Hiện thực được miêu tả là những mảnh rời rạc. Nhà thơ lật đổ những Đại Tự Sự. Hậu Hiện Đại còn “giải thiêng” và phi tâm hóa…(xin đọc Hoe Chân Lời, Sinh Tồn của Văn Cầm Hải). Ý thức thẩm mỹ của nhà thơ Hậu Hiện Đại khác hẳn với nhà “thơ truyền thống”. Inrasara nhận định thế này : “Thơ tuôn tràn tự nhiên như nói, như thở, như ăn, uống, làm tình. Vậy thôi. Không có gì trầm trọng cả.”, ” Thời đại khác, quan điểm thơ cũng khác vừa viết vừa tự khám phá chính mình. Khám phá mình ngay trong hành động viết và qua quá trình viết. Chuyển động và thay đổi. Họ viết - thế thôi. Liên tục chuyển động và thay đổi. Không nhiều nhà phê bình nhận ra điều đó. Rất ít nhà phê bình theo kịp sự chuyển động của họ. Không theo kịp, nhà phê bình mãi ở lại căn chòi mĩ học cũ để nhìn về thơ đương đại, nhận định và phán xét nó.Tiếc thay.”
Tôi nghĩ rằng bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam và thế giới thế kỷ XXI đã hoàn toàn khác với thời kỳ bao cấp trong kháng chiến. Ý thức thẩm mỹ của thời đại cũng đã khác. Muốn cách tân thơ phải xuất phát từ sự đổi mới ý thức thẩm mỹ. Đây là điều cốt tử. Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật nhận rõ điều này: “không thể chấp theo lối cũ. Thơ ca nghệ thuật không thể nằm ngoài chân lý ấy.Thế nhưng sau bao năm đổi mới, nền thơ Việt dường như vẫn quằn quã trong cái ngôi làng lặng yên. Chúng ta phải tự nhận ra rằng chúng ta tự trói lấy chúng ta, bảo thủ, tự bằng lòng thoả mãn với những gì có được.”, Ấy là chúng ta quen với lối mòn thi pháp của thơ kháng chiến viết bằng phương pháp Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa, quen với cách sinh hoạt thơ như thời bao cấp. Nhà thơ đi dự hội nghị được tỉnh cấp kinh phí. “Hội thảo 2 ngày mà có tới ba cuộc tiệc lớn : Tỉnh ủy Thanh Hóa đãi, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thanh Hóa đãi, Hội Nhà văn Việt Nam đãi. Bia rượu vui vẻ.”(Ngô Minh). Nhiều nhà thơ và bạn đọc quen với ý thức thẩm mỹ cũ,vẫn giữ cách nhìn văn chương quan điểm văn chương thời bao cấp, và vì thế sự cách tân thơ đối với họ là điều vô bổ. Nhà phê bình Nguyễn Chí Hoan có một nhận xét rất xác đáng thế này :” sự hoàn chỉnh về hệ thống đó cũng là một rào cản, đặc biệt với những cái-tai-bên-trong, con-mắt-bên-trong của nhiều thế hệ độc giả cũng như tác giả đã hoàn toàn quen với khu vực đặc trưng nhất của không gian ngôn ngữ mà hệ thống kia dựng lên – khu vực của lãng mạn và kỹ xảo tu từ - coi như phạm trù và quan niệm về thơ ( - mà không hề tính đến các cực trị không gian đó đã đạt tới và do vậy đã gợi mở - ) , đến mức nếu ai đó vượt ra để làm khác đi thì sẽ không còn thơ nữa”
Để trả lời cho những lời kêu gọi khẩn thiết về tình trạng thơ khủng hoảng, đang trong cơn bĩ cực, đang mất chỗ đứng trong lòng công chúng, “thơ đang ở thời kỳ hỗn mang, tôi xin mượn ý của nhà thơ Hoàng Vũ Thuật rằng , nhà thơ không thể chấp theo lối cũ, hãy tự cởi trói khỏi sự bảo thủ của ý thức sáng tạo và thói quen sinh hoạt cũ, bởi vì Nghị quyết 23 của Bộ Chính Trị cũng đã mở đường rồi. Nghị quyết ghi rõ :” Tôn trọng, đảm bảo quyền tự do sáng tạo, tạo điều kiện thuận lợi phát huy tính độc lập, khơi dậy mọi nguồn lực sáng tạo của văn nghệ sĩ… tiếp tục đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của văn học, nghệ thuật về đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp sáng tác, sự tìm tòi, thể nghiệm, nâng cao chất lượng toàn diện nền văn học, nghệ thuật nước nhà. “
Những vấn đề do hội thảo Thơ Việt Nam hiện đại nhìn từ miền trung đặt ra vẫn đang là thách thức với mọi nhà thơ. Chưa có câu trả lời cho con đường đi tới phía trước? Chỉ cần 15 năm (1930-1945) Thơ Việt Nam có hẳn một thời đại mới, vậy mà từ 1975 đến nay, đã 35 năm, Thơ Việt Nam đã có những thành tựu gì ? Dường như bạn đọc yêu thơ đã không còn đủ kiên nhẫn để chờ đợi…
12.2011
_____________________________________________
(1) Bài viết này dựa trên bản tin và kỷ yếu của Hội Nhà Văn về Hội thảo Thơ Việt hiện đại nhìn từ miền trung đăng trên http://vanvn.net
(2) Ngô Minh (http://ngominhblog.wordpress.com/2011/10/11/th%C6%A1-nghiem-tr%E1%BB%8Dng-th%E1%BA%ADt/)
(3) Nguyễn Hoàng Đức-Không thể có thơ hay nếu không có sinh hoạt thơ lành mạnh
Bài này đăng trên trang web của Hội Nhà Văn 3.12.2011: http://vanvn.net/news/11/1315-hoi-thao-tho-viet-nam-hien-dai-nhin-tu-mien-trung-nhung-van-de-con-do.html
(4)
Thứ Tư, 30 tháng 11, 2011
ĐI TÌM CHÚA TÔI-kịch Noel
ĐI TÌM CHÚA TÔI- Kịch Noel
Bùi Công Thuấn
LỜI DẪN VÀO KỊCH
(Luca 2.1-20, Mt 2.1-12)
Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Ông Giu-se dẫn Đức Maria từ Na-da-rét (miền Ga-li-lê), lên thành Bê-lem ( miền Giu-đê), để khai tên. Vì không tìm được phòng trọ, hai người phải trú trong trong hang bò lừa. Đức Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. Người đã sinh hạ Chúa Giêsu. Người bọc Chúa trong tã và đặt trong máng cỏ.
Khi Đức Giê-su ra đời, có ngôi sao lạ xuất hiện và có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông theo ánh sao ấy tìm đến Giê-ru-sa-lem. Họ hỏi thăm đường để đến để triều bái Người.
Vở kịch ĐI TÌM CHÚA TÔI vừa tái hiện lại sự kiện lịch sử Thiên Chúa Giáng Sinh, vừa trả lời cho câu hỏi : Những ai có thể tìm thấy Chúa trong đời sống?
Kính mời quý vị và các bạn cùng trở về thời điểm lịch sử Ơn Cứu Độ cách nay hơn 2000 năm…
VÀO KỊCH
Các Nhân Vật (khoảng 20 người gồm cả trẻ em)
1. Lính
2. Dân : một nhóm đi lại trên sân khấu. Có 2 người diễn
3. Đức Maria (chọn một em có khuôn mặt đẹp giống Đức Mẹ)
4. Thánh Giuse
5. Ba vị đạo sĩ (ba vua)
6. Vua Hêrôđê
7. Cung nữ (từ 2 đến 8)
8. Thiên thần nhỏ + Mục đồng (vài em)
9. Một thầy Tư tế, một Kinh Sư
Trang cụ để diễn
1. Quần áo các nhân vật : dân, đạo sĩ, lính, tư tế, kinh sư, vua
2. Giáo, khiên của lính
3. Lừa và lạc đà (làm mô hình bằng giấy bồi khung tre)
4. Một ghế ngai vua, các tay nải của Giuse và ba vua
5. Ngôi sao, các bộ râu, khăn trùm đầu
6. Phông thành Gierusalem (Hoặc máy chiếu slide làm bối cảnh)
7. Bài hát Đêm Đông Lạnh lẽo
8. Nhạc nề : nhạc không lời Ả rập
CẢNH 1: TRỞ VỀ BELEM
Phối cảnh : Trên đường phố từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê, lên thành Bê-lem, miền Giu-đê, người đi về hối hả, từng tốp 2-3 người, vai mang tay nải. Họ vừa đi vừa bàn tán. Một người lính La Mã dùng loa thông báo tin kiểm tra dân số theo lệnh hoàng đế Augusto
(DIỄN HÀI)
Lính : ( cầm loa, đi đi lại lại, chốc chốc lại loan tin) loa…loa…loa.. nghe đây.. nghe đây… nghe đây! Hoàng đế Augusto hạ chiếu rằng : Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Đây là cuộc kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Ai không thực hiện sẽ bị gia hình…loa…loa..loa
(người lính cầm loa, lúc thì hướng về khán giả trước sân khấu, lúc thì hướng về những người đang đi mà loa loa…)
(Những người dân đi lại trên đường vai đeo tay nải, bàn tán, lo lắng)
Dân 1: (lo lắng than thở) thân nghèo đã tha phương cầu thực, giờ lại phải bỏ công ăn việc làm về quê khai tên họ, rồi đây không biết sẽ ra sao nữa.
Dân 2: (lo lắng) Lệnh hoàng đế đã ban, dân nô lệ như bọn mình ai dám cãi. Nhưng đường thì xa mà lệnh thì khẩn cấp, làm sao về quê kịp hả bác ?
Dân 1: (quan tâm) Quê bác ở đâu ?
Dân 2 : (nhìn xa xôi) Tôi ở Bêtania.
Dân 1:(Tỏ ra hiểu biết) Xứ Giuđêa phải không? Còn tôi thì ở Emmau, chắc gần chỗ bác. Từ Galilê về đến quê phải mấy ngày đường, chúng mình đi bộ thế này có kịp không bác?
Dân 2 : (thúc giục) Thôi mau chân lên bác, mình vừa đi vừ nói chuyện. (đi vào trong)
Lính : (đi ra. cầm loa) loa…loa…loa.. nghe đây.. nghe đây… nghe đây! Hoàng đế Augusto hạ chiếu rằng : Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Đây là cuộc kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Ai không thực hiện sẽ bị gia hình…loa…loa..loa .
(lính đi vào)
(Thánh Giuse và Đức Mẹ xuất hiện trong dòng người đi về kiểm tra. Đức Mẹ ngồi trên lưng con la, Giuse dắt đi bộ. Hai người dừng lại nghỉ một lát và nói chuyện)
(DIỄN TRANG TRỌNG)
Đức Maria : (Lo lắng, nhẹ nhàng) Mình đi thế này có mết lắm không? từ Na-da-rét, về Bê-lem, đường dài đến 150 cây số, mình với con lừa này đã đi 5 ngày đàng rồi.
Thánh Giuse (từ tốn- khỏe mạnh); Mình cứ yên tâm. Tôi vẫn khỏe thôi, chỉ lo cho mình đường xa thế này..
Đức Mari a: Mình đừng lo. Chúa sẽ gìn giữ chúng ta
Thánh Giuse: (giảng giải) Đường xa nhưng chúng ta vừa đi qua những nơi đầy kỷ niệm. Đây là vùng đất còn vang dội bài ca chinh chiến. Kìa là núi Tabor . Đây là Sulam nơi tiên tri Elisê từng hoạt động, Xuôi về nam, là cánh đồng, rặng núi Gelboe, nơi vua Saolê và con là Jonathan, bạn của Đavít và bao nhiêu chiến sĩ đã ngã gục ở chiến trường. Đây khởi đầu núi đồi Samaria “xứ dân ngoại” nơi dòng giống Giacóp và phần mộ của tổ phụ Giuse đưa từ Ai cập về.
Đức Maria : Chúng ta đi trên con đường của Thiên Chúa phải không?
Thánh Giuse : Ừ, Chúa đang dẫn dắt chúng ta. Mình thấy không. Chúng ta đang vào xứ Giuđêa, Đây Silô, Bethel những di tích thánh còn ghi hình ảnh của Samuel. Kìa Giêrusalem xuất hiện, thành thánh trải dài núi đồi Sion, óng ánh nắng vàng và trên ngọn nổi bật, Đền thờ của Thiên Chúa.
Đức Maria : (Đức Maria và thánh Giuse cùng hướng về Gierusalem ) Chúng ta hãy ca tụng Thiên Chúa :” Ai sẽ lên núi Giavê? Ai sẽ đứng chầu trong thánh điện của Người? Kẻ tay trắng trong, lòng băng tuyết. Hồn không hướng tới hư không” (Tv 24, 3-4).
(hai người tiếp tục lên đường, nhiều người tiếp tục đi lại)
Thánh Giuse : (an ủi ) Bêlem cách Giêrusalem tám cây số nữa. Thị trấn nhỏ nằm ngang trên hai quả đồi song song, bao quanh bởi những vườn cây Ôliu và cây ăn trái.
Đức Maria : (Nói với thánh Giuse) 800 năm về trước, ngôn sứ Michee nói rằng : “Còn ngươi, hỡi Bêlem, đất Ephrata, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì nơi ngươi sẽ sinh hạ Đấng sẽ cai trị nhà Israel (Mk 5,1). Ôi kỳ diệu thay việc Thiên Chúa làm.
(hai người vào trong sân khấu.
Đèn sân khấu tắt.
Đèn ngôi sao treo trên cao sáng lên.
Mở nhạc bài ĐÊM ĐÔNG lạnh lẽo Chúa sinh ra đời..đến “Ôi Chúa giáng sinh khó khăn thấp hèn”)
Hoặc bố trí cách khác để chuyển cảnh ________________________________________________________________
CẢNH 2 : ĐI TÌM CHÚA TÔI
(DIỄN TRANG TRỌNG)
Sân khấu: Ở một góc sân khấu, sau khi đèn tắt, một em bé (hoặc một nhóm em bé)đóng vai thiên thần cầm đèn ngôi sao sáng đưa lên cao. Một vài em đóng vai mục đồng nằm ngồi cùng hát. Đèn sáng lên, mở bài Đêm Đông
Ba vua (ba nhà đạo sĩ) xuất hiện. Học mặc áo màu khác nhau , chống gậy cao khỏi đầu, vai đeo bị. (Một người áo khoác đỏ, một người áo vàng, một người áo xanh) vừa đi vừa chỉ về phía ngôi sao và nói chuyện. Sau đó học dừng lại.
Vua 1:(chỉ tay, reo lên ) Kìa ngôi sao lạ lại xuất hiện rồi, Tôi nhớ tiên tri Đaniel nói đến sự xuất hiện của CON NGƯỜI . Đaniel nói :” Tôi mãi nhìn các thị kiến ban đêm, thì này : với mây trời, như thể một Con Người đi đến… Ngài được ban tặng quyền bính, vinh dự, vương triều. Nước của Người, nước bền mãi, và mọi quyền bính sẽ làm tôi và vâng phục Người “. Chúng ta đi thôi
Vua 2: (đưa tay ngăn lại) sách Dân số cũng nói :”Một vì sao xuất hiện từ nhà Gia-cóp, một vương trượng trổi dậy từ Israel”(Ds 24,17), chúng ta biết có một vị vua mới xuất hiện ở nhà Israel, nhưng ngài ở đâu bây giờ ? Ngôi sao tắt rồi.
Vua 3: (Tỏ vẻ am tường) Tiên tri Isaia báo loan báo :” Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi… Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, “ Ánh sáng ngôi sao kia có phải là từ Gierusalem?
Vua 1: (Đồng thuận) Đúng là ánh sang vinh quang của Chúa rồi. Chúng ta đi Giêrusalem.
Vua 2 : Này, nhưng mà tiên tri Mikêa nói cụ thể hơn là :”Hỡi Belem Eprata, ngươi nhỏ nhất trong Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ sinh ra Đấng cai trị trong Israel”(Mk 5,1). Vậy chúng ta hãy tới Belem.
Vua 3. (Chỉ tay ra phía trước khán giả) Chúng ta đang ở tại đất Giêrusalem rồi mà, không thấy kinh thành nguy nga và người lại tấp nập đó sao. Nhưng đường nào đi Belem? Ngôi sao tắt rồi
Vua 1 : Hay là chúng ta vào yết kiến vua ở đây để xin ngài giúp chăng
Vua 2: Ý kiến hay. Nhưng tôi rất e ngại
Vua 3: Ngài e ngại điều gì ?
Vua 2. Chúng ta từ ngàn dặm tới đây. Là người lạ, làm sao họ tin chúng ta,
với lại…
Vua 3: Với lại điều gì ?
Vua 2 : Với lại .. tôi nghe nói vua Hêrôđê rất tàn bạo. Ông ta đã giết vợ và cả gia
đình bà nầy, hành quyết bao nhiêu người Isael, từng thiêu sống 14 thiếu niên
để kết tội dân chúng đã gỡ hình con ó bằng vàng mà ông gắn ngay trước của
đền thờ v.v. và
Vua 3 : Và sao nữa
Vua 2 : tôi nhớ trong sách Xuất hành có nói điều này : : « 1 vị hoàng tử đến với
vua Pharaon và nói rằng một Hài Nhi cao trọng sẽ sinh ra giữa Israel…
xin bệ hạ hãy ra lệnh giết hết mọi con trẻ » (Ex.1, 9 – 22) . Biết đâu ông ta
sẽ lại ra tay…
Vua 1. Thì ta hãy cứ vào yết kiến Hêrôđê đã, sau đó sẽ tính. Mục đích của chúng ta là
đi tìm Đấng Cứu Thế như các tiên tri đã tiên báo, vì ngôi sao của Người đã
xuất hiện dẫn đường cho chúng ta.
Vua 3 : Ngài nói phải, ta hãy vào tìm vua Herode rồi hãy đi.
(Ba vua đi vào trong sân khấu-chuyển cảnh nhanh sang vua Hêrôđê)
_____________________________________
CẢNH 3 : HÊRÔĐÊ NỔI ĐIÊN
Lính : ( cầm loa, từ góa sân khấu đi ra) loa…loa…loa.. nghe đây.. nghe đây… nghe đây! Hỡi thần dân Giêrusalem, Hoàng đế Hêrôd giá lâm, Hoàng đế giá lâm… (chỉ vào đám đông ) các ngươi quỳ xuống, quỳ xuống mau.
(Sau lính là một đoàn cung nữ, từ 2 đến 8 cung nữ đi trước, vua Hêrôđê tiến ra sân khấu , đứng giữa sân khấu, các cung nữ quỳ chắp tay hai bên)
DIỄN HÀI
Vua : (Lẫm liệt) Lính đâu
Lính : (khúm núm) Dạ. Muôn tâu hoàng đế Ngài bảo gì ạ!
Vua : ( Nghiêm trọng ) Ta truyền chỉ cho ngươi
Lính : (Quỳ trước mặt vua vòng tay cung kính) Dạ xin tuân chỉ. Dạ thưa, Ngài hạ
chỉ cho hạ thần điều gì ạ?
Vua: Ta truyền cho ngươi mau đem ngai vàng ra đây cho ta ngồi. Người không
thấy ta mỏi chân sắp té rồi sao
Lính :(Vội vã) Dạ
Các cung nữ:(Các cung nữ vội chạy đến đỡ vua)Bẩm hoàng đế có sao không ạ
Vua : (gạt cung nữ ra ) Ta không sao.
(Lính chạy vào mang ra cái ghề đẩu)
Lính : (cung kính) Bẩm hoàng đế, ngai vàng đã sẵn sàng, mời Ngài ngự… tọa
(kéo dài giọng)
Vua : (có vẻ giận dữ) Đây là cái ghế đẩu, người bảo là ngai vàng sao!
Lính : Dạ bẩm. Hoàng đế là vua, Ngài phán thế nào thì ra thế ấy. Ghế đẩu Ngài
phán là ngai vàng thì là ngai vàng a!
Vua : (bớt giận) . Thôi được. Thị nữ, đỡ trẫm ngồi lên ngai vàng.
(Thị nữ đỡ vua ngồi lên ghế, rối đứng hai bên)
(DIỄN TRANG NGHIÊM)
Vua : (ra oai) Các khanh, ai cho chuyện gì tấu xem.?
Lính : (ấp úng) Dạ bẩm hoàng đế ngoài đường…
Vua : (ngạc nhiên) Ngoài đường thế nào?
Lính : ( lắp bắp) Bẩm xôn xao lắm ạ!
Vua : (ra oai) xôn xao cái gì? Dân chúng muốn làm loạn à?
Lính : (quỳ mọp) Hạ thần không dám nói ạ!
Vua : (phất tay) cứ nói!
Lính : (xá lia lịa) Hạ thần không dám.., hạ thần mà nói thì.. hòang đế sẽ nổi nóng . Mà hoàng đế nổi nóng thì …nhà con… bị tru di cửu tộc ạ! Con sợ lắm.
Vua : (lại phất tay) Ta cho phép, cứ nói!
Lính : (lấm lét) Dạ, bẩm hoàng đế, dân chúng xôn xao vì tin…
Hoàng đế : (nóng ruột) Tin gì ? nói mau nào?
Lính : (lạy hoàng đế) Hoàng đế đừng giận, dạ tin vua dân Do Thái mới sinh.
(nói xong vẫn lạy)
Vua : (gằn giọng, có vẻ hoảng hốt) Vua dân Do Thái mới sinh à. Sinh ở đâu?
Lính : Dạ. con không biết ạ. Chỉ nghe dân xôn xao là Vua dân Do Thái mới sinh,
Đức vua ấy sẽ giải thoát dân Do Thái khỏi ách nô lệ. Dân chúng mừng vui
lắm ạ.
Vua : (giận dữ) Láo, láo! Láo! khi quân!
Lính : (sợ hãi) Bẩm hạ thần không dám, xin hoàng đế tha mạng. Hạ thần không
dám khi quân ạ
Vua : (giận dữ) Ta đang làm vua thì còn có vua nào nữa! Dân này là dân nô lệ của
ta, ta mới chính là vua của chúng. Chúng muốn chống theo giặc chống lại ta
à.?
Lính : (run run) Bẩm. Xin hoàng đế bớt giận, ấy là dân chúng xôn xao vậy thôi
(Các cung nữ xúm vào, người quạt, người đấm lưng, người vuốt ngực cho
vua, vua gạt ra, đứng lên lẫm liệt, giận dữ)
Vua : (nổi nóng) Lính đâu, ra ngoài điều tra rõ thực hư xem sao.
Lính : da (rồi lui ra)
Cung nữ : Để chúng thần múa hát cho hoàng đế hạ nhiệt ạ !
(Có thể cho cung nữ múa một bào nào đó chọn nhạc Arập và múa kiểu lắc
hông, hoạc để vua gạt đi)
Vua : (tiếp tục giận dữ, chờ đợi) không múa hát gì cả, ta đang nóng điên người
đây. Cho gọi tất cả các các Thượng Tế, các Kinh Sư trong dân lại đây, ta
muốn biết việc này thế nào.
Cung nữ :(hướng ra ngoài gọi) Lính ơi…, vào vua biểu!
(trong khi đó, vua ngồi trên ngai., các cung nữ tiếp tục quạt và đấm bóp)
Lính :(chạy vào, hỏi cung nữ) Vua biểu gì dạ? Hồi nãy vua biểu chạy ra ngoài coi
Dân xem sao, chưa kịp ra đến đường, vua lại gọi vào là sao?
Cung nữ ( õng ẹo ra lệnh ) Vua biểu đi gọi các thầy Tư tế và các Kinh sư vào để
vua tư vấn! nghe rõ chưa?
Lính : (tò mò ) tư vấn gì?
Cung nữ : thì chuyện dân xôn xao Vua Do Thái gì đó..trầm trọng rồi đó nha. Đi
mau đi.
Lính : Dạ (lui ra ngoài)
Vua : (gạt cung nữ đứng lên, nói một mình)
Dân này đích thực muốn làm loạn rồi, không thế được. Số kiếp chúng mày
là nô lệ, mãi mãi nô lệ.
Vua : (giằn mạnh ) Chúng mày đã làm nô lệ ở Babilon, và bây giờ là thần dân của
đế quốc La mã.
Vua : (Khẳng định) Sẽ chẳng có một Môisê nào khác cứu được các ngươi. Làm gì có vua dân do Thái? Đavid đã chết, Sôlômôn cũng đã chết. Thiên Chúa của chúng đã tiêu diệt chúng. Đavit đã phạm tội ngoại tình và tội sát nhân, còn Sôlômôn thì say mê sắc dục vô độ, hắn có 700 thê thất và 300 hầu thiếp. Bọn đàn bà này đã làm xiêu lạc long hắn. Hắn không còn trung thành với Yavê Thiên Chúa. Hắn đã bỏ Chúa đi theo các thần khác và hắn đã bị trừng phạt.
Vua : (gầm lên ) Và bây giờ đến phần ta, ta sẽ trừng phạt chúng, sẽ trừng phạt bất cứ kẻ nào chống lại ta, sẽ tiêu diệt chúng trong trứng nước về tội phản loạn, sẽ đập nát như Nabukôđônosor đã phá hủy Yêrusalem cả thành lẫn đền thờ.(năm 587 TCN)
(3 người : 1lính, 1 thượng tế-1 kinh sư cùng vào)
Lính ( cùng quỳ lạy đức vua) Đức hoàng đế vạn tuế, vạn vạn tuế.
Chúc an đức hoàng đế
Vua : (ngồi vào ghế) bình thân (lính và kinh sư, thượng tế ngồi xuống đất)
Vua : (vừa giận dữ, vừa lo lắng nói) Trẫm triệu tập các khanh vào triều vì có một việc trọng đại, liên quan đến vận mệnh triều đại của trẫm. (ngưng lại, nhìn mọi người)
Các khanh đã đã nghe dân chúng xôn xao ở ngoài kia về Đấng Kitô vua dân Do Thái mới sinh. Chúng sắp làm loạn rồi. Các khanh nói xem, Đấng Ki-tô, phải sinh ra ở đâu. ?
Thượng tế : (cung kính) "Tại Bê-lem, miền Giu-đê,”
Kinh sư : (nói theo) Thưa : vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi
Bê-lem, miền đất Giu-đa,ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa,
vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời".
Vua : (lo lắng) có thật như thế sao?
Thượng tế: (sun xoe) Mấy bữa nay ở đâu dân chúng xôn xao, bọn mục đồng loan
truyền tin một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-
vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa.
Kinh sư : Isaya tiên báo "Một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con, và sẽ gọi tên là
Emmanuel" (Is.7, 14).
Thượng Tế : Êzêkiel cũng nói :” "Ta sẽ cho chỗi dậy một mục tử duy nhất, Ngài
sẽ chăn dắt chúng. Ngài sẽ là mục tử của chúng. ..và chúng, nhà Israel, là
dân của Ta - sấm của Ðức Yave -" (Ez. 34, 23 - 24, 30).
Vua : ( sững sờ) Thế nghĩa là vị vua con nít ấy sẽ thay thế ta?
Kinh sư : (bối rối) Dạ chúng thần không biết
Vua : (lo lắng) Các ngươi trả lời cho ta xem, từ xưa đến nay các tiên tri nói có sai
bao giờ không ?
Thượng tế : (rụt rè) Bẩm không ạ
Vua : (sững sờ) Thế nghĩa là nếu Vua Do Thái còn thì ta mất. Không thể nào,
không thể nào. Các ngươi lui.
(Cung nữ thượng tế, kinh sư, lính đi ra. Vua Hêrod ngồi gục đầu suy nghĩ)
Lính (chạy vào) Bẩm có ba đạo sĩ xin yết kiến
Vua : (dịu lại, ngạc nhiên) Đạo sĩ nào
Lính : 3 vị đạo sĩ từ phương đông tới, họ xin được yết kiến đấng hoàng đế ạ.
Vua : Lính. Cho họ vào.
(các cung nữ lui vào sân khấu, lính đứng hầu bên vua . Ba đạo sĩ vào)
Ba đạo sĩ : (cùng cúi đầu) : Muôn lạy đức hoàng đế. Đức hoàng đế vạn tuế.
Vua : (ngồi xuống ghế ) Ta miễn lễ. Các khanh từ xa đến gặp ta có chuyện gì
Đạo sĩ 1. (Cung kính) Trước hết chúng thần vấn an đức hoàng đế
Vua : (Đưa tay ) cám ơn, cám ơn
Đạo sĩ 2 : (nói dõng dạc) Bẩm muôn tâu, chúng thần xin đức hoàng đế chỉ
giáo cho , thưa “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu?
Đạo sĩ 3: (nói theo) Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên
phương Đông”
Đạo sĩ 1 : (khẳng định) Chúng thần đến bái lạy Người
Vua : (bắt đầu nổi giận trở lại) Các ngươi nói vua nào. Trẫm đây là hoàng đế, còn
Vua Do Thái nào khác?
Đạo sĩ 1 : Bẩm Vua Do Thái. Chúng tôi thấy ngôi sao lạ. Ngôi sao đã dẫn đường
chúng tôi tới đây
Đạo sĩ 2: (Xác tín) Cứ theo lời các tiên tri thì Vua Do Thái sinh ra ở Belem.
Vua : ( thân mật) Vua Do Thái sinh ở Belem à? Đó là một nơi nghèo hèn sao lại
có vua sinh ra được?
Đạo sĩ : Các tiên tri đã nói rằng :”Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa,ngươi
đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt
Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời".
Vua : Vậy các khanh cứ đi Belem, dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi
đã tìm thấy, xin báo lại cho trẫm, để trẫm cũng đến bái lạy Người." Các
khanh lên đường đi.
Ba đạo sĩ: (Cung kính, thân thiện) Chúng thần tạ ơn hoàng đế. Sau khi tìm thấy
Vua Hài Nhi, chúng thần sẽ trở lại báo tin cho người.
Vua : (dứt khoát) Lính đâu, tiễn khách
(Lính chạy ra, đưa ba vua vào trong. Còn lại một mình, vua càng nghĩ càng
căm giận)
Vua : (lẩm bẩm) Đích thực là Vua dân Do Thái đã sinh ra rồi, từ bọn mục đồng khờ khạo /đến bọn đạo sĩ khôn ngoan này, cả những tiên tri của chúng nữa, cả bọn Tư tế và Kinh sư nữa, chúng đều nói giống nhau .
Vua : (trầm tư) Chúng đều xác định cụ thể ngày giờ, nơi chốn Vua Do Thái sinh ra. Sao lại trùng hợp như thế, làm sao chúng có thể nói giống nhau được. Sao lại có ngôi sao lạ. Và ngôi sao lạ này lại dẫn đắt bọn đạo sĩ từ phương đông tìm tới Gierusalem này đúng vào dịp này? Xưa nay / chỉ có đấng minh quân xuất hiện /mới có điềm lạ như thế. Chẳng lẽ/ Đấng mà chúng gọi là Đức Kitô ấy /lại là đấng giải thoát dân Israel?
Vua :( lo lắng và giận dữ) con người này tuy chỉ là một hài nhi, nhưng sự xuất hiện của nó /làm cả đất trời rung động/, các tiên tri nói về nó/, các đạo sĩ tìm đến nó/, toàn dân Do Thái hướng về nó, quá khứ và tương lai của nó, sao tầm vóc nó lại lớn lao như vậy. Bỗng dưng đế quốc La Mã của ta/ bị ánh sáng của nó che mờ. Thế nghĩa là /sẽ không còn có chỗ cho ta!
(đấm mạnh tay xuống, nghiến răng,, mắt trợn lên vì giận)
Vua :(hét lên) Không thể như thế được, ta phải giết, phải giết hết. Lính đâu!
Lính : (hốt hoảng)Dạ, bẩm hoàng đế sao mặt người tái thế kia, Người bớt giận.
Vua: (thở hổn hển) Làm sao ta bớt giận được. Giết, giết hết!
Lính : (nhìn quanh) Giết ai, xin đừng giết hạ thần, hạ thần tuyệt đối trung thành với hoàng đế
(Cung nữ chạy ra)
Cung nữ : (Xúm xít đỡ vua) Hoàng đế, hoàng đế!
Vua : (lảo đảo) giết, giết hết!
Cung nữ :(lo sợ, sụp xuống chân vua ) Đừng giết chúng thần, xin hoàng đế tha
mạng, xin tha mạng!
Vua : (quay cuồng) Giết hết bọn con nít từ hai tuổi trở xuống, giết hết không được để sót đứa nào (thở hổn hển) để ta xem Vua Do Thái có thoát được không. (cười to lên ) Ha ha ha, ha ha ha (nổi điên lên, rồi té ngồi xuống ghế, xỉu, lăn xuống đất)
Lính và cung nữ : (quýnh quáng): Hoàng đế, hoàng đế đừng chết, hoàng đế đừng chết, Người bỏ chúng thần lại cho ai.(tất cả cùng khóc rống lên)
(Đèn tắt, sau đó sáng lên. Tất cả cùng ra chào khán giả)
_______________________________
http://yume.vn/buicongthuan/article/di-tim-chua-toi-kich-noel.35D6A195.html
Thứ Hai, 25 tháng 7, 2011
THƠ ĐƯỜNG LUẬT TRONG DÒNG CHẢY CỦA THƠ VIỆT ĐƯƠNG ĐẠI
THƠ ĐƯỜNG LUẬT
TRONG DÒNG CHẢY CỦA THƠ VIỆT ĐƯƠNG ĐẠI
Bùi Công Thuấn
Hiện nay có khá nhiều người làm thơ Đường luật. Câu Lạc Bộ UNESCO – Thơ Đường Việt Nam có 77 chi hội trong cả nước, có 2349 hội viên [1]. Câu Lạc Bộ UNESCO – Thơ Đường Việt Nam cũng đã tổ chức được các đại hội toàn quốc, in tuyển tập thơ “ Thơ Đường luật Việt Nam”. Do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành,với gần 1500 trang thơ, của các chi nhánh hội thơ trong cả nước.[2] Ở hải ngoại, phong trào làm thơ Đường luật cũng sôi nổi. Hà Đình Huy cho biết :” Ở Pháp nhóm Bảo Tồn Văn Hoá Việt chủ trương sưu tầm lại các thi phẩm cổ, mà phần lớn là những bài thơ Đường Luật của các danh nhân Trung Hoa cũng như Việt Nam. Những bài thơ của các thi hào Lý Bạch, Đỗ Phủ, Lê Thánh Tông, được nhóm trân quý và cho in thành sách. Phong trào làm sống lại thơ Đường mạnh nhất là nhóm của các thi sĩ Thiên Tâm, Đông Thiên Triết, Trường Giang…, trong hội “Thi Văn Đàn Bốn Phương” ở miền Bắc tiểu bang California Hoa kỳ…[3]
Do đâu thơ Đường luật được nhiều người quan tâm, sáng tác và bảo tồn ? và do đâu, dù có nhiều người sáng tác thơ Đường luật, nhưng chưa có nhà thơ hay bài thơ Đường luật nào ghi được dấu ấn trong dòng thơ Việt đương đại ? Phải chăng làm thơ Đường luật ngày nay chỉ như một thú chơi đồ cổ của một thế hệ người làm thơ đã thuộc thời quá vãng ?
1.Cái thú của người chơi thơ Đường luật
Người làm thơ Đường luật hẳn nhiên là người yêu thơ Đường và cảm nhận được cái hay của thơ Đường. Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Giả Đảo, Vương Bột, Vương Duy, Thôi Hộ, Thôi Hiệu, Liễu Tông Nguyên, Trương Kế, Vương Xương Linh, Lạc Tân Vương …đã để lại những tuyệt tác cho hậu thế mà bất cứ ai đọc thơ Đường không thể không ngưỡng phục.Các nhà thơ Đường hầu như đã khai thác mọi đề tài, kể cả tình dục [4], họ đã khám phá được những tứ thơ độc đáo, diễn tả được mọi khía cạnh của tâm hồn bằng vẻ đẹp của một kiểu tư duy thơ thiên về trí tuệ. Cái hay của thơ Đường là ở tứ thơ, ở kiểu ngôn ngữ hàm xúc và ở vẻ đẹp của tư tưởng. Xin đọc
Giang Tuyết
Thiên sơn điểu phi tuyệt
Vạn kính nhân tung diệt
Cô chu toa lạp ông
Độc điếu hàn giang tuyết
Liễu Tông Nguyên
(Nghĩa : Trên nghìn núi chim bay hết/
Trên muôn lối đi không có dấu người /
Thuyền lẻ loi, ông chài áo tơi nón lá/
một mình câu tuyết trên sông lạnh )
Đăng Cao
Phong cấp thiên cao viên khiếu ai
Chử thanh sa bạch điểu phi hồi
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận Trường Giang cổn cổn lai
Vạn lí bi thu thường tác khách
Bách niên đa bệnh độc đăng đài
Gian nan khổ hận phồn sương mấn
Lạo đảo tân đình trọc tiểu bôi
Đỗ Phủ
(Nghĩa:
LÊN CAO
Gió thổi mạnh, trời cao, vượn kêu buồn thương,
Bến nước trong, cát trắng, chim bay trở về
Lá cây rụng ào ào, dường như không bao giờ hết
Sông Trường Giang cuồn cuộn chảy bất tận
Mùa thu buồn, thường làm khách (xa nhà) vạn dặm,
Cõi đời trăm năm nhiều bệnh, một mình bước lên đài.
Khổ hận gian nan (làm cho) búi tóc nhuộm đầy sương
Lận đận gần đây phải ngừng chén rượu đục
Dịch thơ:
Trèo lên cao
Gió mạnh trời cao vượn réo sầu
Bến trong cát trắng, chim về đâu ?
Mênh mông cây rụng hiu hiu trải,
cuồn cuộn Trường Giang chảy chảy mau.
Muôn dặm sầu thu, thường tác khách,
Trăm năm đa bệnh, dạo đài cao.
Gian nan khổ hận đầu mau bạc,
lận đận đành thôi chén rượu đào.
(Ngô Văn Phú)
Vọng Lư Sơn bộc bố
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên
Lý Bạch
Nghĩa
Xa ngắm thác núi Lư
Mặt trời chiếu núi Hương Lô sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân Hà rơi tự chín tầng mây
Đọc những bài thơ này, bạn đọc hôm nay sẽ ngạc nhiên trước sự khám phá những tứ thơ thật lạ, thể hiện những tình cảm mãnh liệt của thi nhân và kiểu tư duy thơ thiên về vẻ đẹp trí tuệ, vẻ đẹp tư tưởng. Chính cái đẹp của tứ thơ tư tưởng có sức ám ảnh và lay động sâu xa trong lòng người đọc.
Thơ Đường luật Việt Nam đã được các bậc tiền bối Việt hóa. Sự khác biệt cơ bản là ở kiều tư duy nghệ thuật. Hình tượng thơ không còn là tứ thơ tư tưởng mà là hình ảnh biểu cảm (như hình ảnh trong ca dao). Cái hay của thơ Đường luật Việt Nam là ở tình tự dân tộc, làng quê, ở chất dân dã mộc mạc nhưng tinh tế, ở phẩm chất tâm hồn và văn hóa Việt Nam
Bạn Đến Chơi Nhà
Đã bấy lâu nay bác tới nhà.
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta.
Nguyễn Khuyến
Qua Đèo Ngang
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen lá đá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái da da.
Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Bà Huyện Thanh Quan
Thương vợ
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phần
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
Trần Tế Xương
Thơ Đường luật còn đem đến cho người chơi thơ những thú vui trí tuệ của nghệ thuật ngôn từ. Đó là cái thú của sự tài hoa vượt qua luật lệ cứng nhắc gò bó chật chội của thơ Đường. Đó là nghệ thuật chơi chữ mà khó có thứ ngôn ngữ nào khác tiếng Việt có thể có được. Xin đọc bài Cửa Sổ Đêm Khuya sau đây của Hàn Mặc Tử
Hoa cười nguyệt rọi cưả lồng gương
Lạ cảnh buồn thêm nỗi vấn vương
Tha thướt liễu in hồ gợn sóng
Hững hờ mai thoảng gió đưa hương
Vắng bạn ngâm thơ rượu bẽ bàng
Qua lại yến ngàn dâu ủ lá
Hoà đàn sẵn có dế bên tường
Bài Cửa Sổ Đêm Khuya có thể đọc nhiều cách : đọc xuôi, đọc ngược. Bỏ 2 chữ đầu đọc xuôi, bỏ 2 chữ cuối đọc ngược.
Bài Nỗi Buồn Xuân Xưa của Đông Hòa cũng có thể đọc thuận, nghịch [5]
Xuân vắng đã xưa cảnh đổi dời
Muộn ngày thêm trắng sợi buồn rơi
Nhân tình luyến mộng đêm mòn giấc
Mộ huyệt chôn người kiếp khổ đời
Ân oán nỗi lòng vương đắm mộng
Đớn đau hồn lặng khuất ngàn khơi
Trần duyên mãi tiếc ai tràn lệ
Xuân đợi mỏi chân bước rã rời
Nghệ thuật xướng-họa cũng là một cái thú của thơ Đường luật. Bởi người họa phải vượt qua cái khó của thi luật, tình, ý mà người xướng nêu ra, đồng thời cũng phải thể hiện được nét tài hoa trong nghệ thuật và tầm vóc văn hóa tương xứng với người xướng. Cặp xướng –họa Xuân Hương và Chiêu Hổ là một thí dụ.
Hồ Xuân Hương xướng:
Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay!
Chiêu Hổ họa:
Này ông tỉnh, này ông say
Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Hang hùm ví bẵng không ai mó
Sao có hùm con bỗng trốc tay?
Đọc bài xướng –họa trên, người đọc không còn thấy đâu là những vướng mắc của thi luật, hay khuôn sáo của văn chương cửa Khổng sân Trình, trái lại sự tài hoa của nhà thơ, những tinh tế của tiếng Việt và những tứ thơ bất ngờ, độc đáo làm vỡ ra những thú vị nghệ thuật không dễ có được .
2. Thơ Đường luật trong dòng chảy của thơ Việt Đương đại
Trong tiến trình thơ Việt đương đại, thơ Đường luật không giành được một vị trí đáng được chú ý, mà hình như chỉ hiện diện bên lề, người đi đường không mấy quan tâm. Người làm thơ Đường luật lý giải thế nào về thực tế này ?
Câu trả lời có lẽ nằm ngay trong thi pháp thể loại. Thơ Đường luật Bát cú hay Tứ Tuyệt, với số câu, số chữ giới hạn, không chứa đựng nổi hiện thực lớn lao, không diễn tả được những cảm xúc mãnh liệt của con người trước những biến động của lịch sử. Không phải ngẫu nhiên mà trường ca phát triển mạnh trong thơ Việt Nam từ ngay sau Cách Mạng tháng Tám 1945 (Đèo Cả, Hoan Hô Chiến Sĩ Điện Biên) nhất là trong kháng chiến chống Mỹ.
Bố cục thơ Đường luật, phép đối, niêm, cách phô diễn tình cảm tư tưởng đều theo khuôn mẫu, khiến cho thơ Đường luật trở nên khuôn sáo, cứng nhắc, vô cảm. Đọc câu thơ trước có thể đoán được ý câu sau (do phép đối). Đọc một bài có thể liên tưởng được nhiều bài. Người làm thơ Đường luật hôm nay hầu như khai thác lại tất cả các đề tài, cảm xúc, tứ thơ đã được người đi trước khai thác, khiến cho thơ Đường luật hiện nay trở nên quá cũ, đánh mất đi sự sáng tạo.
Xin đọc
Tự hào
Kháng chiến gian lao một chặng đường
Anh hùng liệt sỹ sáng bao gương
Bền gan, vững chí qua mưa nắng
Bất khuất, kiên cường vượt tuyết sương
Muôn thuở, danh thơm ngời đất nước
Ngàn đời tên tuổi rạng quê hương
Cháu con mãi mãi luôn ghi nhớ
Ơn lớp người xưa đã dẫn đường .
(Ngô Ngọc Khánh- Cao Bằng)
Tức cảnh
Cần Thơ nắng trải ngất ngây tình
Nhẹ lướt du thuyền ngoạn cảnh xinh
Bổng tiếng đàn bầu vương nét cọ
Xề câu vọng cổ bén duyên mình
Cầu vươn sừng sững, chim vờn bóng
Nước chảy miên man, cá giỡn hình
Vẳng giọng hò ai da diết lạ
Hay là nhắn gọi đất hồi sinh .
(Nguyễn Thanh Toàn –Cần Thơ)
Chiều Xuân Hà Nội
Chiều xuân Hà Nội gió riêu riêu
Tháp bút mờ xa rựng ráng chiều
Nắng sót bừng soi đường phố cũ
Trăng ngời rắc hạt bức tường rêu
Long Biên sừng sững con rồng thép
Sông Nhị lung linh giải lụa điều
Cây cối xanh tươi mầm nảy nụ
Bờ xa ríu rít tiếng chim kêu
(Xuân Bảo- Đồng Nai)
Ba bài thơ trên rất chuẩn mực về niêm luật, về câu chữ và tình ý. Bạn đọc không thể chê vào đâu được. Thế nhưng khuôn mẫu cứng ngắc, sáo mòn, giả tạo, cũ kỹ của thơ Đường luật làm cho nội dung bài thơ trở nên quá lạc hậu với đời sống đang cuồn cuộn chảy ngoài kia, khiến người đọc thơ khó tránh khỏi sự ngán ngẩm về một thứ thơ đã mờ nhạt rêu phủ.
Người làm thơ Đường luật hôm nay vẫn vịnh cảnh, tức cảnh, Xuân, Hạ, Thu, Đông, trăng, rượu, thù tạc, nhâm nhi với tình bạn, tình quê, trải lòng với đất nước, giãi bày tâm sự, tìm quên trong tư tưởng Lão Trang…
Đêm trăng
Đêm đêm cùng bạn ngắm trời mây
Mê mải đuổi trăng đến chốn này
Gió chuyển niềm vui tràn bể bắc
Mây xua nỗi nhớ ngập rừng tây
Trăng vàng soi tỏ lòng sông cạn
Mắt ngọc rơi trong giếng nước đầy
Chú dế kêu kêu tròn mũ lính
Chị Hằng nhè nhẹ vịn tay xoay .
(trong tập Những Hạt Phù Sa-CLB thơ Hài Đức)
Ung Dung
Rượu bầu thơ túi cứ an nhiên
Thênh thang trời đất sống như tiên
Kệ thằng danh lợi lòng không lụy
Mặc đứa giàu sang dạ chẳng phiền
Gối bóng trăng khuya vờn đỉnh núi
Tựa làn gió nhạt thoảng bên hiên
Thế gian một kiếp sầu ai oán
Bốn cửa nhân sinh thỏa nhãn tiền
Khánh Chân –Biên Hòa
Tuy vậy, đôi khi người đọc cũng gặp được bài thơ hay. Xin đọc
Dang dở
Nhỡ hái cho nhau những trái sầu
Tình ta đành để lạnh mưa ngâu
Mênh mông con nước chia bờ mộng
Lặng lẽ đàn chim bỏ nhịp cầu
Chẳng phải em xưa lười dệt cửi
Đâu vì ta trước biếng chăn trâu
Lạc loài hai đứa hai phương nhớ
Mấy bận sương thu nhuộm mái đầu !
Mười năm cách biệt
Thiếu vắng mười năm em với ta
Mười năm mà ngỡ mới hôm qua!
Em chưa chải hết sầu trên tóc
Ta đã chôn rồi mộng dưới hoa
Vẫn nhớ vẫn thương mà cách trở
Dẫu cười dẫu khóc cũng chia xa
Con tim vô tội chưa ngừng đập
Thì chút tình xưa mãi thiết tha…
Đó là hai bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú của nhà thơ Đinh Vũ Ngọc đang sống ở Phố cổ Hội An [6]. Thực ra sức hấp dẫn của hai bài thơ trên là ở cảm hứng lãng mạn mà ngòi bút tài hoa đã vượt qua được sự khô cứng của khuôn mẫu thơ Đường luật cổ điển. “Nhỡ hái cho nhau những trái sầu/Tình ta đành để lạnh mưa ngâu”và “Em chưa chải hết sầu trên tóc/ Ta đã chôn rồi mộng dưới hoa”là những tứ thơ lãng mạn nổi bật lên trên nền Đường luật.
3. Con đường nào cho thơ Đường luật Việt Nam hiện nay?
Từ thơ Đường đến thơ Đường luật, khởi đi từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, con đường Việt hóa đã hoàn tất bởi thế hệ những nhà thơ Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến… Sau này Quách Tấn cũng không có đóng góp gì mới cho việc cách tân thơ Đường luật.
Nét Thương Tâm
Bồi hồi canh trở mộng
Nửa nguyệt gác đầu non
Dưới bóng đèn hiu hắt
Mẹ già ngồi khóc con.
(Quách Tấn)
Mong Đợi
Ngọt ngào xuân rụng móc
Cam chuối đượm tình quê
Tựa cửa chờ trăng mọc
Muôn xa lòng ghé về.
(Quách Tấn)
Lòng Thiên Cổ
Giũ áo vào hư không
Nghìn xưa phai nét chữ
Song khuya ngọn sáp hồng
Giọt ứa dòng tâm sự.
(Quách Tấn)
Hư Tâm
tặng P. J. F.
Chim chiều kêu trước dậu
Gối sách nhìn hư không
Phơi phới làn mây trắng
Bay qua ngọn ráng hồng.
(Quách Tấn)
Dù Vậy Quách Tấn cũng để lại một gương mặt thơ tài hoa có đường nét riêng, có khí vị Thiền mà sau này Phạm Thiên Thư là người kế thừa (?)Những người làm thơ Đường luật hiện nay đã không đi theo con đường của Quách Tấn, mà đi theo Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương…thành ra thơ Đường luật hiện nay quá cũ về thi pháp, hầu như chỉ lặp lại những tình điệu, ý tứ đã được khai thác cạn kiệt.
Theo tôi, có hai hướng có thể làm mới thơ Đường luật. Trước hết đặc trưng thi pháp thơ Đường là ở sự sáng tạo những tứ thơ độc đáo, có vẻ đẹp trí tuệ, vẻ đẹp tư tưởng. Người làm thơ Đường luật muốn đạt được những giá trị mới, nhất thiết phải thực hiện được đặc trưng thi pháp này. Xin đọc Thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh để thấy chủ tịch HCM đã làm mới thơ Đường luật thế nào
Nguyên Tiêu
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên
Yên ba giang thượng đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
Báo Tiệp
Nguyệt thôi song vấn : Thi thành vị?
- Quân vụ nhưng mang vị tố thi
Sơn lâu chung hưởng kinh thu mộng
Chính thị liên khu báo tiệp thì
Những bài thờ này vẫn nằm trong thi pháp thơ Đường nhưng tứ thơ rất mới và hiện đại. Chất liệu, cảm xúc và tư duy thơ là nghệ thuật cổ điển, song tứ thơ, cảm hứng, nội dung, tư tưởng lại hiện đại
Bài Cảnh Rừng Việt Bắc, Sáu Mươi Tuổi của HCM là một hướng làm mới thơ Đường luật theo một lối khác
Cảnh Rừng Việt Bắc
Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay,
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày,
Khách đến thì mời ngô nếp nướng,
Săn về thường chén thịt rừng quay,
Non xanh, nước biếc tha hồ dạo,
Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say.
Kháng chiến thành công ta trở lại,
Trăng xưa, hạc cũ với xuân này.
Sáu Mươi Tuổi
Sáu mươi tuổi hãy còn xuân chán
So với ông Bành vẫn thiếu niên
Ăn khoẻ, ngủ ngon, làm việc khoẻ
Trần mà như thế kém gì tiên.
Đây là hướng các nhà thơ cổ điển Việt hóa thơ Đường đã thực hiện. Nhà thơ đem nguyên chất hơi thở đời sống hiện thực vào thơ. Chính nội dung hiện thực mới này làm cho thơ Đường luật mới mẻ, thoát khỏi khuôn sáo cũ. Thơ gần với đời sống.
Tứ tuyệt Đường luật là một thể thơ đặc sắc, người làm thơ Đường luật nên khai thác thể thơ này. Xin đọc
Chim Sẻ Tháng Ba
Chim sẻ dập dình ngoài cửa sổ
Bay vào kiếm thóc tận trong nhà
Ngưng tay không nỡ cài then lại
Thương đám chim gầy đói tháng ba
(Ngô Văn Phú)
Em bé bán báo cuối năm
Cha mẹ mất vì tai nạn cả
Em đi bán báo dáng liêu xiêu
Phố phường chuẩn bị vào năm mới
Em đợi giàu thêm một tuổi nghèo.
(Mùa Xuân)
Ngồi Câu
Chẳng chấp gì bé lớn
Một mình nghe lặng thinh
Mây trên đầu luẩn quẩn
Ông ngồi câu bóng mình
(Trần Ngọc Tuấn)
Đan Áo
em ngồi đan chiếc áo len xanh
hẹn gió thu về gửi tặng anh
rồi bỏ đó em vào thiên cổ
anh một đời ngóng áo thiên thanh
(Phạm Thiên Thư)
Hiện nay có sự pha trộn tứ tuyệt lục bát và tứ tuyệt lãng mạn (kiểu thơ bảy chữ biến đổi luật bằng trắc của thất ngôn Đường luật).Nếu giữ được đặc trưng tứ thơ tư tưởng của thơ Đường thì sự kết hợp vẫn đạt tới những giá trị nghệ thuật mới mẻ
Át cơ
Anh tìm về địa chỉ tuổi thơ
Nhà số lẻ, phố trò chơi để ngỏ
Mộng em hường, tim môi em bói đỏ
Giàn trầu già khua những át cơ rơi
(Lê Đạt)
Ngậm ngùi tháng chạp
Người người náo nức về quê
Miến măng giỏ trước, cau chè bị sau
Rưng rưng, hút mắt con tàu
Mình còn cha mẹ nữa đâu mà về!
(Nguyễn Thái Sơn)
Vô Biên
Mảnh vườn em qua ngày đó
Lá xanh bay theo tóc mềm
Cỏ xanh tràn theo lối nhỏ
Để giờ vười hóa vô biên
(Trần Ninh Hồ)
Thơ Đường và thơ Đường luật Việt Nam là một nền thơ có thi pháp riêng, thi pháp ấy có sức gọi mời thi nhân sáng tạo. Vì thế tôi tin rằng nhiều nhà thơ Việt Nam sẽ tiếp tục tìm đến cái đẹp của thơ Đường luật. Trong muôn một, thế nào người đọc cũng tìm thấy những hạt châu ngọc thi ca lấp lánh.
Tháng 7/2011
(Đã đăng trên Văn Chương Việt ngày 26.07.2011)
http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/vanhoc_tacpham.asp?TPID=16368&LOAIID=33&LOAIREF=1&TGID=743
_____________________________________________-
[1] http://thoduongdatviet.com/11485/144/d/nws/danh-sach-cac-chi-hoi-unesco-tho-duong-3032011.aspx
[2] http://thoduongdatviet.com/11363/126/d/nws/thi-pham-nam-2010-2011-cua-clb-tho-duong-unesco-viet-nam.aspx
[3] Hà Đình Huy : http://www.saigongate.com/tac-gia.aspx?id=834
[4]Hàn Ốc và Hương Liễm Tập : http://thivien.maihoatran...hp?p=thamkhao&tkid=18
[5]http://vandanviet.net/shop_news.php?l=vn&ac=235&start=0&cn=711&sort=1&item=4&from=&to=&mode=n&cn=711&n=7832
[6] Dẫn theo Cao Quảng Văn : “Ai bảo thơ Đường không có mật”. http://lethieunhon.com/read.php/3973.htm
TRONG DÒNG CHẢY CỦA THƠ VIỆT ĐƯƠNG ĐẠI
Bùi Công Thuấn
Hiện nay có khá nhiều người làm thơ Đường luật. Câu Lạc Bộ UNESCO – Thơ Đường Việt Nam có 77 chi hội trong cả nước, có 2349 hội viên [1]. Câu Lạc Bộ UNESCO – Thơ Đường Việt Nam cũng đã tổ chức được các đại hội toàn quốc, in tuyển tập thơ “ Thơ Đường luật Việt Nam”. Do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành,với gần 1500 trang thơ, của các chi nhánh hội thơ trong cả nước.[2] Ở hải ngoại, phong trào làm thơ Đường luật cũng sôi nổi. Hà Đình Huy cho biết :” Ở Pháp nhóm Bảo Tồn Văn Hoá Việt chủ trương sưu tầm lại các thi phẩm cổ, mà phần lớn là những bài thơ Đường Luật của các danh nhân Trung Hoa cũng như Việt Nam. Những bài thơ của các thi hào Lý Bạch, Đỗ Phủ, Lê Thánh Tông, được nhóm trân quý và cho in thành sách. Phong trào làm sống lại thơ Đường mạnh nhất là nhóm của các thi sĩ Thiên Tâm, Đông Thiên Triết, Trường Giang…, trong hội “Thi Văn Đàn Bốn Phương” ở miền Bắc tiểu bang California Hoa kỳ…[3]
Do đâu thơ Đường luật được nhiều người quan tâm, sáng tác và bảo tồn ? và do đâu, dù có nhiều người sáng tác thơ Đường luật, nhưng chưa có nhà thơ hay bài thơ Đường luật nào ghi được dấu ấn trong dòng thơ Việt đương đại ? Phải chăng làm thơ Đường luật ngày nay chỉ như một thú chơi đồ cổ của một thế hệ người làm thơ đã thuộc thời quá vãng ?
1.Cái thú của người chơi thơ Đường luật
Người làm thơ Đường luật hẳn nhiên là người yêu thơ Đường và cảm nhận được cái hay của thơ Đường. Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Giả Đảo, Vương Bột, Vương Duy, Thôi Hộ, Thôi Hiệu, Liễu Tông Nguyên, Trương Kế, Vương Xương Linh, Lạc Tân Vương …đã để lại những tuyệt tác cho hậu thế mà bất cứ ai đọc thơ Đường không thể không ngưỡng phục.Các nhà thơ Đường hầu như đã khai thác mọi đề tài, kể cả tình dục [4], họ đã khám phá được những tứ thơ độc đáo, diễn tả được mọi khía cạnh của tâm hồn bằng vẻ đẹp của một kiểu tư duy thơ thiên về trí tuệ. Cái hay của thơ Đường là ở tứ thơ, ở kiểu ngôn ngữ hàm xúc và ở vẻ đẹp của tư tưởng. Xin đọc
Giang Tuyết
Thiên sơn điểu phi tuyệt
Vạn kính nhân tung diệt
Cô chu toa lạp ông
Độc điếu hàn giang tuyết
Liễu Tông Nguyên
(Nghĩa : Trên nghìn núi chim bay hết/
Trên muôn lối đi không có dấu người /
Thuyền lẻ loi, ông chài áo tơi nón lá/
một mình câu tuyết trên sông lạnh )
Đăng Cao
Phong cấp thiên cao viên khiếu ai
Chử thanh sa bạch điểu phi hồi
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận Trường Giang cổn cổn lai
Vạn lí bi thu thường tác khách
Bách niên đa bệnh độc đăng đài
Gian nan khổ hận phồn sương mấn
Lạo đảo tân đình trọc tiểu bôi
Đỗ Phủ
(Nghĩa:
LÊN CAO
Gió thổi mạnh, trời cao, vượn kêu buồn thương,
Bến nước trong, cát trắng, chim bay trở về
Lá cây rụng ào ào, dường như không bao giờ hết
Sông Trường Giang cuồn cuộn chảy bất tận
Mùa thu buồn, thường làm khách (xa nhà) vạn dặm,
Cõi đời trăm năm nhiều bệnh, một mình bước lên đài.
Khổ hận gian nan (làm cho) búi tóc nhuộm đầy sương
Lận đận gần đây phải ngừng chén rượu đục
Dịch thơ:
Trèo lên cao
Gió mạnh trời cao vượn réo sầu
Bến trong cát trắng, chim về đâu ?
Mênh mông cây rụng hiu hiu trải,
cuồn cuộn Trường Giang chảy chảy mau.
Muôn dặm sầu thu, thường tác khách,
Trăm năm đa bệnh, dạo đài cao.
Gian nan khổ hận đầu mau bạc,
lận đận đành thôi chén rượu đào.
(Ngô Văn Phú)
Vọng Lư Sơn bộc bố
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên
Lý Bạch
Nghĩa
Xa ngắm thác núi Lư
Mặt trời chiếu núi Hương Lô sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân Hà rơi tự chín tầng mây
Đọc những bài thơ này, bạn đọc hôm nay sẽ ngạc nhiên trước sự khám phá những tứ thơ thật lạ, thể hiện những tình cảm mãnh liệt của thi nhân và kiểu tư duy thơ thiên về vẻ đẹp trí tuệ, vẻ đẹp tư tưởng. Chính cái đẹp của tứ thơ tư tưởng có sức ám ảnh và lay động sâu xa trong lòng người đọc.
Thơ Đường luật Việt Nam đã được các bậc tiền bối Việt hóa. Sự khác biệt cơ bản là ở kiều tư duy nghệ thuật. Hình tượng thơ không còn là tứ thơ tư tưởng mà là hình ảnh biểu cảm (như hình ảnh trong ca dao). Cái hay của thơ Đường luật Việt Nam là ở tình tự dân tộc, làng quê, ở chất dân dã mộc mạc nhưng tinh tế, ở phẩm chất tâm hồn và văn hóa Việt Nam
Bạn Đến Chơi Nhà
Đã bấy lâu nay bác tới nhà.
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta.
Nguyễn Khuyến
Qua Đèo Ngang
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen lá đá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái da da.
Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Bà Huyện Thanh Quan
Thương vợ
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phần
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
Trần Tế Xương
Thơ Đường luật còn đem đến cho người chơi thơ những thú vui trí tuệ của nghệ thuật ngôn từ. Đó là cái thú của sự tài hoa vượt qua luật lệ cứng nhắc gò bó chật chội của thơ Đường. Đó là nghệ thuật chơi chữ mà khó có thứ ngôn ngữ nào khác tiếng Việt có thể có được. Xin đọc bài Cửa Sổ Đêm Khuya sau đây của Hàn Mặc Tử
Hoa cười nguyệt rọi cưả lồng gương
Lạ cảnh buồn thêm nỗi vấn vương
Tha thướt liễu in hồ gợn sóng
Hững hờ mai thoảng gió đưa hương
Vắng bạn ngâm thơ rượu bẽ bàng
Qua lại yến ngàn dâu ủ lá
Hoà đàn sẵn có dế bên tường
Bài Cửa Sổ Đêm Khuya có thể đọc nhiều cách : đọc xuôi, đọc ngược. Bỏ 2 chữ đầu đọc xuôi, bỏ 2 chữ cuối đọc ngược.
Bài Nỗi Buồn Xuân Xưa của Đông Hòa cũng có thể đọc thuận, nghịch [5]
Xuân vắng đã xưa cảnh đổi dời
Muộn ngày thêm trắng sợi buồn rơi
Nhân tình luyến mộng đêm mòn giấc
Mộ huyệt chôn người kiếp khổ đời
Ân oán nỗi lòng vương đắm mộng
Đớn đau hồn lặng khuất ngàn khơi
Trần duyên mãi tiếc ai tràn lệ
Xuân đợi mỏi chân bước rã rời
Nghệ thuật xướng-họa cũng là một cái thú của thơ Đường luật. Bởi người họa phải vượt qua cái khó của thi luật, tình, ý mà người xướng nêu ra, đồng thời cũng phải thể hiện được nét tài hoa trong nghệ thuật và tầm vóc văn hóa tương xứng với người xướng. Cặp xướng –họa Xuân Hương và Chiêu Hổ là một thí dụ.
Hồ Xuân Hương xướng:
Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay!
Chiêu Hổ họa:
Này ông tỉnh, này ông say
Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Hang hùm ví bẵng không ai mó
Sao có hùm con bỗng trốc tay?
Đọc bài xướng –họa trên, người đọc không còn thấy đâu là những vướng mắc của thi luật, hay khuôn sáo của văn chương cửa Khổng sân Trình, trái lại sự tài hoa của nhà thơ, những tinh tế của tiếng Việt và những tứ thơ bất ngờ, độc đáo làm vỡ ra những thú vị nghệ thuật không dễ có được .
2. Thơ Đường luật trong dòng chảy của thơ Việt Đương đại
Trong tiến trình thơ Việt đương đại, thơ Đường luật không giành được một vị trí đáng được chú ý, mà hình như chỉ hiện diện bên lề, người đi đường không mấy quan tâm. Người làm thơ Đường luật lý giải thế nào về thực tế này ?
Câu trả lời có lẽ nằm ngay trong thi pháp thể loại. Thơ Đường luật Bát cú hay Tứ Tuyệt, với số câu, số chữ giới hạn, không chứa đựng nổi hiện thực lớn lao, không diễn tả được những cảm xúc mãnh liệt của con người trước những biến động của lịch sử. Không phải ngẫu nhiên mà trường ca phát triển mạnh trong thơ Việt Nam từ ngay sau Cách Mạng tháng Tám 1945 (Đèo Cả, Hoan Hô Chiến Sĩ Điện Biên) nhất là trong kháng chiến chống Mỹ.
Bố cục thơ Đường luật, phép đối, niêm, cách phô diễn tình cảm tư tưởng đều theo khuôn mẫu, khiến cho thơ Đường luật trở nên khuôn sáo, cứng nhắc, vô cảm. Đọc câu thơ trước có thể đoán được ý câu sau (do phép đối). Đọc một bài có thể liên tưởng được nhiều bài. Người làm thơ Đường luật hôm nay hầu như khai thác lại tất cả các đề tài, cảm xúc, tứ thơ đã được người đi trước khai thác, khiến cho thơ Đường luật hiện nay trở nên quá cũ, đánh mất đi sự sáng tạo.
Xin đọc
Tự hào
Kháng chiến gian lao một chặng đường
Anh hùng liệt sỹ sáng bao gương
Bền gan, vững chí qua mưa nắng
Bất khuất, kiên cường vượt tuyết sương
Muôn thuở, danh thơm ngời đất nước
Ngàn đời tên tuổi rạng quê hương
Cháu con mãi mãi luôn ghi nhớ
Ơn lớp người xưa đã dẫn đường .
(Ngô Ngọc Khánh- Cao Bằng)
Tức cảnh
Cần Thơ nắng trải ngất ngây tình
Nhẹ lướt du thuyền ngoạn cảnh xinh
Bổng tiếng đàn bầu vương nét cọ
Xề câu vọng cổ bén duyên mình
Cầu vươn sừng sững, chim vờn bóng
Nước chảy miên man, cá giỡn hình
Vẳng giọng hò ai da diết lạ
Hay là nhắn gọi đất hồi sinh .
(Nguyễn Thanh Toàn –Cần Thơ)
Chiều Xuân Hà Nội
Chiều xuân Hà Nội gió riêu riêu
Tháp bút mờ xa rựng ráng chiều
Nắng sót bừng soi đường phố cũ
Trăng ngời rắc hạt bức tường rêu
Long Biên sừng sững con rồng thép
Sông Nhị lung linh giải lụa điều
Cây cối xanh tươi mầm nảy nụ
Bờ xa ríu rít tiếng chim kêu
(Xuân Bảo- Đồng Nai)
Ba bài thơ trên rất chuẩn mực về niêm luật, về câu chữ và tình ý. Bạn đọc không thể chê vào đâu được. Thế nhưng khuôn mẫu cứng ngắc, sáo mòn, giả tạo, cũ kỹ của thơ Đường luật làm cho nội dung bài thơ trở nên quá lạc hậu với đời sống đang cuồn cuộn chảy ngoài kia, khiến người đọc thơ khó tránh khỏi sự ngán ngẩm về một thứ thơ đã mờ nhạt rêu phủ.
Người làm thơ Đường luật hôm nay vẫn vịnh cảnh, tức cảnh, Xuân, Hạ, Thu, Đông, trăng, rượu, thù tạc, nhâm nhi với tình bạn, tình quê, trải lòng với đất nước, giãi bày tâm sự, tìm quên trong tư tưởng Lão Trang…
Đêm trăng
Đêm đêm cùng bạn ngắm trời mây
Mê mải đuổi trăng đến chốn này
Gió chuyển niềm vui tràn bể bắc
Mây xua nỗi nhớ ngập rừng tây
Trăng vàng soi tỏ lòng sông cạn
Mắt ngọc rơi trong giếng nước đầy
Chú dế kêu kêu tròn mũ lính
Chị Hằng nhè nhẹ vịn tay xoay .
(trong tập Những Hạt Phù Sa-CLB thơ Hài Đức)
Ung Dung
Rượu bầu thơ túi cứ an nhiên
Thênh thang trời đất sống như tiên
Kệ thằng danh lợi lòng không lụy
Mặc đứa giàu sang dạ chẳng phiền
Gối bóng trăng khuya vờn đỉnh núi
Tựa làn gió nhạt thoảng bên hiên
Thế gian một kiếp sầu ai oán
Bốn cửa nhân sinh thỏa nhãn tiền
Khánh Chân –Biên Hòa
Tuy vậy, đôi khi người đọc cũng gặp được bài thơ hay. Xin đọc
Dang dở
Nhỡ hái cho nhau những trái sầu
Tình ta đành để lạnh mưa ngâu
Mênh mông con nước chia bờ mộng
Lặng lẽ đàn chim bỏ nhịp cầu
Chẳng phải em xưa lười dệt cửi
Đâu vì ta trước biếng chăn trâu
Lạc loài hai đứa hai phương nhớ
Mấy bận sương thu nhuộm mái đầu !
Mười năm cách biệt
Thiếu vắng mười năm em với ta
Mười năm mà ngỡ mới hôm qua!
Em chưa chải hết sầu trên tóc
Ta đã chôn rồi mộng dưới hoa
Vẫn nhớ vẫn thương mà cách trở
Dẫu cười dẫu khóc cũng chia xa
Con tim vô tội chưa ngừng đập
Thì chút tình xưa mãi thiết tha…
Đó là hai bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú của nhà thơ Đinh Vũ Ngọc đang sống ở Phố cổ Hội An [6]. Thực ra sức hấp dẫn của hai bài thơ trên là ở cảm hứng lãng mạn mà ngòi bút tài hoa đã vượt qua được sự khô cứng của khuôn mẫu thơ Đường luật cổ điển. “Nhỡ hái cho nhau những trái sầu/Tình ta đành để lạnh mưa ngâu”và “Em chưa chải hết sầu trên tóc/ Ta đã chôn rồi mộng dưới hoa”là những tứ thơ lãng mạn nổi bật lên trên nền Đường luật.
3. Con đường nào cho thơ Đường luật Việt Nam hiện nay?
Từ thơ Đường đến thơ Đường luật, khởi đi từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, con đường Việt hóa đã hoàn tất bởi thế hệ những nhà thơ Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến… Sau này Quách Tấn cũng không có đóng góp gì mới cho việc cách tân thơ Đường luật.
Nét Thương Tâm
Bồi hồi canh trở mộng
Nửa nguyệt gác đầu non
Dưới bóng đèn hiu hắt
Mẹ già ngồi khóc con.
(Quách Tấn)
Mong Đợi
Ngọt ngào xuân rụng móc
Cam chuối đượm tình quê
Tựa cửa chờ trăng mọc
Muôn xa lòng ghé về.
(Quách Tấn)
Lòng Thiên Cổ
Giũ áo vào hư không
Nghìn xưa phai nét chữ
Song khuya ngọn sáp hồng
Giọt ứa dòng tâm sự.
(Quách Tấn)
Hư Tâm
tặng P. J. F.
Chim chiều kêu trước dậu
Gối sách nhìn hư không
Phơi phới làn mây trắng
Bay qua ngọn ráng hồng.
(Quách Tấn)
Dù Vậy Quách Tấn cũng để lại một gương mặt thơ tài hoa có đường nét riêng, có khí vị Thiền mà sau này Phạm Thiên Thư là người kế thừa (?)Những người làm thơ Đường luật hiện nay đã không đi theo con đường của Quách Tấn, mà đi theo Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương…thành ra thơ Đường luật hiện nay quá cũ về thi pháp, hầu như chỉ lặp lại những tình điệu, ý tứ đã được khai thác cạn kiệt.
Theo tôi, có hai hướng có thể làm mới thơ Đường luật. Trước hết đặc trưng thi pháp thơ Đường là ở sự sáng tạo những tứ thơ độc đáo, có vẻ đẹp trí tuệ, vẻ đẹp tư tưởng. Người làm thơ Đường luật muốn đạt được những giá trị mới, nhất thiết phải thực hiện được đặc trưng thi pháp này. Xin đọc Thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh để thấy chủ tịch HCM đã làm mới thơ Đường luật thế nào
Nguyên Tiêu
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên
Yên ba giang thượng đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
Báo Tiệp
Nguyệt thôi song vấn : Thi thành vị?
- Quân vụ nhưng mang vị tố thi
Sơn lâu chung hưởng kinh thu mộng
Chính thị liên khu báo tiệp thì
Những bài thờ này vẫn nằm trong thi pháp thơ Đường nhưng tứ thơ rất mới và hiện đại. Chất liệu, cảm xúc và tư duy thơ là nghệ thuật cổ điển, song tứ thơ, cảm hứng, nội dung, tư tưởng lại hiện đại
Bài Cảnh Rừng Việt Bắc, Sáu Mươi Tuổi của HCM là một hướng làm mới thơ Đường luật theo một lối khác
Cảnh Rừng Việt Bắc
Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay,
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày,
Khách đến thì mời ngô nếp nướng,
Săn về thường chén thịt rừng quay,
Non xanh, nước biếc tha hồ dạo,
Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say.
Kháng chiến thành công ta trở lại,
Trăng xưa, hạc cũ với xuân này.
Sáu Mươi Tuổi
Sáu mươi tuổi hãy còn xuân chán
So với ông Bành vẫn thiếu niên
Ăn khoẻ, ngủ ngon, làm việc khoẻ
Trần mà như thế kém gì tiên.
Đây là hướng các nhà thơ cổ điển Việt hóa thơ Đường đã thực hiện. Nhà thơ đem nguyên chất hơi thở đời sống hiện thực vào thơ. Chính nội dung hiện thực mới này làm cho thơ Đường luật mới mẻ, thoát khỏi khuôn sáo cũ. Thơ gần với đời sống.
Tứ tuyệt Đường luật là một thể thơ đặc sắc, người làm thơ Đường luật nên khai thác thể thơ này. Xin đọc
Chim Sẻ Tháng Ba
Chim sẻ dập dình ngoài cửa sổ
Bay vào kiếm thóc tận trong nhà
Ngưng tay không nỡ cài then lại
Thương đám chim gầy đói tháng ba
(Ngô Văn Phú)
Em bé bán báo cuối năm
Cha mẹ mất vì tai nạn cả
Em đi bán báo dáng liêu xiêu
Phố phường chuẩn bị vào năm mới
Em đợi giàu thêm một tuổi nghèo.
(Mùa Xuân)
Ngồi Câu
Chẳng chấp gì bé lớn
Một mình nghe lặng thinh
Mây trên đầu luẩn quẩn
Ông ngồi câu bóng mình
(Trần Ngọc Tuấn)
Đan Áo
em ngồi đan chiếc áo len xanh
hẹn gió thu về gửi tặng anh
rồi bỏ đó em vào thiên cổ
anh một đời ngóng áo thiên thanh
(Phạm Thiên Thư)
Hiện nay có sự pha trộn tứ tuyệt lục bát và tứ tuyệt lãng mạn (kiểu thơ bảy chữ biến đổi luật bằng trắc của thất ngôn Đường luật).Nếu giữ được đặc trưng tứ thơ tư tưởng của thơ Đường thì sự kết hợp vẫn đạt tới những giá trị nghệ thuật mới mẻ
Át cơ
Anh tìm về địa chỉ tuổi thơ
Nhà số lẻ, phố trò chơi để ngỏ
Mộng em hường, tim môi em bói đỏ
Giàn trầu già khua những át cơ rơi
(Lê Đạt)
Ngậm ngùi tháng chạp
Người người náo nức về quê
Miến măng giỏ trước, cau chè bị sau
Rưng rưng, hút mắt con tàu
Mình còn cha mẹ nữa đâu mà về!
(Nguyễn Thái Sơn)
Vô Biên
Mảnh vườn em qua ngày đó
Lá xanh bay theo tóc mềm
Cỏ xanh tràn theo lối nhỏ
Để giờ vười hóa vô biên
(Trần Ninh Hồ)
Thơ Đường và thơ Đường luật Việt Nam là một nền thơ có thi pháp riêng, thi pháp ấy có sức gọi mời thi nhân sáng tạo. Vì thế tôi tin rằng nhiều nhà thơ Việt Nam sẽ tiếp tục tìm đến cái đẹp của thơ Đường luật. Trong muôn một, thế nào người đọc cũng tìm thấy những hạt châu ngọc thi ca lấp lánh.
Tháng 7/2011
(Đã đăng trên Văn Chương Việt ngày 26.07.2011)
http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/vanhoc_tacpham.asp?TPID=16368&LOAIID=33&LOAIREF=1&TGID=743
_____________________________________________-
[1] http://thoduongdatviet.com/11485/144/d/nws/danh-sach-cac-chi-hoi-unesco-tho-duong-3032011.aspx
[2] http://thoduongdatviet.com/11363/126/d/nws/thi-pham-nam-2010-2011-cua-clb-tho-duong-unesco-viet-nam.aspx
[3] Hà Đình Huy : http://www.saigongate.com/tac-gia.aspx?id=834
[4]Hàn Ốc và Hương Liễm Tập : http://thivien.maihoatran...hp?p=thamkhao&tkid=18
[5]http://vandanviet.net/shop_news.php?l=vn&ac=235&start=0&cn=711&sort=1&item=4&from=&to=&mode=n&cn=711&n=7832
[6] Dẫn theo Cao Quảng Văn : “Ai bảo thơ Đường không có mật”. http://lethieunhon.com/read.php/3973.htm
Thứ Hai, 16 tháng 5, 2011
ÔN THI ĐH - NGUYỄN TUÂN- Người Lái Đò Sông Đà
ÔN THI ĐẠI HỌC
NGUYỄN TUÂN – NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
Người Lái Dò Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà
1. Hoàn cảnh sáng tác :
Sông Đà được in 1960, gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Sông Đà là kết quả những chuyến đi cuả Nguyễn Tuân lên Tây Bắc từ những năm 1958.
2. Nội dung : Sông Đà miêu tả thiên nhiên Tây Bắc tuyệt vời hùng vĩ, thơ mộng, phát hiện chất vàng mười cuả con người vùng Tây Bắc, như bộ đội biên phòng, cán bộ điạ chất..đang âm thầm, dũng cảm xây dựng Tây Bắc…
3. Nghệ thuật :
a. Sông Đà có nhiều bức tranh sinh động và nhiều hình tượng giàu sức hấp dẫn, đồng thời
cũng đậm đà cảm hứng lãng mạn trong sáng.
b.Sông Đà thể hiện rất rõ phong cách nghệ thuật cuả Nguyễn Tuân sau CM/8
NỘI DUNG NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
Nguyễn Tuân giới thiệu ông lái đò Lai châu, bạn tác giả, từng làm nghề chở đò dọc.Hiện ông đã 70 tuổi nhưng than hình vẫn còn quắc thước, trẻ tráng. Ông sẵn sàng tình nguyện chở một phái đòan khảo sát song Đà. Nguyễn Tuân nghe ông kể việc chèo đò, xuôi dòng, vượt thác, qua thách trận. Qua đó giới thiệu 73 con thác, vách thành, giếng hút, thạch trận. Nguyễn Tuân cũng tìm hiểu con song Đà trong lịch sử, thơ văn và kháng chiến. Ông hướng về song Đà trong tương lai xây dựng tổ quốc XHCN
HÌNH TƯỢNG CON SÔNG ĐÀ
Sông Đà được miêu tả như một nhân vật, một sinh thể , một con người đầy tâm trạng và cá tính, biết nhớ thương, “ làm mình làm mẩy “..
Sông Đà có hai đặc điểm : “Hung bạo và trữ tình” ( chữ cuả Nguyễn Tuân )
1.Tính cách “Hung bạo”
Nói sông Đà hung bạo là nói về sự hùng vĩ tráng lệ cuả con sông . Thiên nhiên thành ra tâm điạ và diện mạo cuả thứ kẻ thù số một.
Sông Đà có 73 con thác dữ, có vách thành hai bên bờ sông vách đá dựng đứng, có những xoáy nước như giếng hút có thể hút và đập vỡ con đò dưới đáy sông, có thạch trận với ba trùng vi binh hùng tướng mạnh, nhiều cửa tử ít cửa sinh ( khi làm bài phải miêu tả lại ).. . là chiến trường sinh tử cuả nhà đò. “ cuộc sống cuả họ ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác “
2.Tính cách “trữ tình”
Nói sông Đà trữ tình là nói vẻ đẹp gợi cảm thơ mộng cuả con sông :
Sông Đà có những quãng lặng tờ, “ bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”nơi ấy tác giả thả hồn cùng cảnh vật, nói chuyện với con hươu thơ ngộ mà nghe lòng mình ngân vang câu thơ Tản Đà” bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”. Từ máy bay nhìn xuống, Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc. Đi rừng lâu ngày, Nguyễn Tuân nhớ sông Đà như nhớ một cố nhân, người cố nhân ấy đầm đầm âm ấm. Bờ sông Đà, bãi sông Đà có những quãng chuồn chuồn bươm bướm , trên sông có nắng tháng ba Đường thi. Gặp lại con sông, tác giả vui như nối lại chiêm bao đứt quãng..
3.Nghệ thuật tả Sông Đà
Nguyễn Tuân khắc họa hình tượng Sông Đà qua lời kể của ông lái đò, qua những quan sát trực tiếp từ trên máy bay, qua những chặng sông theo chân ông lái đò. NT tập trung đặc tả những cảnh sắc riêng của sông Đà như vách thành, giếng hút, thạch trận, những bờ bãi chuồn chuồn bươm bướm, những quãng lặng tờ. Nguyễn Tuân cũng tra cứu lịch sử và tìm hiểu sông Đà trong kháng chiến. Ngòi bút Tùy bút của ông cũng thả hồn mình theo những liên tưởng, so sánh bay bổng phóng túng
Sông Đà còn được miêu tả ở nhiều góc độ , ánh lên nhiều vẻ đẹp riêng :
Nhìn theo ông lái đò, Sông Đà là một trường thiên anh hùng ca
Nhìn Từ máy bay nhìn xuống, sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình
Nhìn từ đáy giếng hút nhìn lên, sông Đà truyền cảm giác lạ
Nhìn từ trong tâm tưởng nhìn ra, Sông Đà là một cố nhân
Nhìn theo chiều lịch sử dân tộ , sông Đà là con sông sử thi, gắn bó với lịch sử và kháng chiến
4. Mục đích miêu tả sông Đà
Sông Đà được miêu tả làm bối cảnh sử thi cho nhân vật . Nguyễn Tuân đặt ông lái đò như một tượng đài sừng sững trên sóng thác sông Đà. Sông Đà kỳ vĩ bao nhiêu thì người láu đò kỳ vĩ bấy nhiêu, đó là hình tượng con người chiến thắng thiên nhiên, con người làm chủ.“ Trên thác hiên ngang một người lái đò sông Đà có tự do “ .
Sông Đà cũng thể hiện tình yêu quê hương đất nước cuả Nguyễn Tuân. Nguyễn tuân ca ngợi sông núi đất nước hùng vĩ, thơ mộng . Ông có những khám phá riêng về thiên nhiên đất nước của mình. Nước sông Đà mùa xuân xanh ngọc bích, mùa thu lừ lừ chín đỏ. Sông Đà có những quãng lặng tờ, bờ sông hoang dại như bờ tiền sử. Đi trên sông, Nguyễn Tuân nói chuyện với con hươu thơ ngộ, nói chuyện với người lái đò, lắng nghe tiếng hát của các cô gái hai bên sông, để lòng mình sâu lắng với thời kháng chiến gian lao. “Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình “. Nguyễn Tuân thấy tâm hồn mình “ lai láng cái lòng muốn đề thơ vào sông nước” .Ngày xưa thi nhân tham quan cảnh núi sống đẹp đẽ thì xúc động làm thơ, thuê thợ tạc vào vách đá. Nguyễn Tuân đi trên sông Đà muốn đề thơ vào sông nước.Đó là cách nói bày tỏ lòng mình với thiên nhiên đất nước.
SÔNG ĐÀ, CÔNG TRÌNH KHẢO CỨU, TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT
NLĐSD là một công trình khảo cứu công phu vì Nguyễn Tuân tìm hiều sông Đà từ lịch sử thời nhà Trần, đọc Dư Điạ Chí cuả Nguyễn Trãi, tìm trong thơ văn Nguyễn Quang Bích, Tôn Thất Thuyết, Tản Đà. Nguyễn Tuân lội rừng hàng tháng trời cùng anh cán bộ liên lạc. NT sống với người dân hai bên sông để tìm hiểu tình hình cách mạng ở sông Đà những ngày gian khổ. NT theo ông lái đò xuôi dòng, xuống thác, qua thạch trận để tả cho được thiên nhiên kỳ vĩ của sông Đà. Phải mất nhiều thời gian, công sức mới có thể viết được một áng văn như vậy.
NLĐSông Đà là tác phẩm nghệ thuật đặc sắc, vì Nguyễn Tuân đã xây dựng được hình tượng con sông Đà và hình tượng người lái đò sông Đà đặc sắc ( miêu tả lại hai hình tượng này ). NLĐSD cũng thể hiện đặc sắc tuỳ bút và phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.( phân tích )
HÌNH TƯỢNG ÔNG LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
Ông lái đò được Nguyễn Tuân giới thiếụ khá trân trọng : Ông lái đó Lai châu, bạn tôi
1.Nguyễn Tuân đặc tả dáng nét nghề nghiệp :
Người đọc nhận ra ngay đó là ông lái đò : chân khuỳnh khuỳnh như lúc nào cũng kẹp cái cuống lái tưởng tượng, tay lêu nghêu như con sào, giọng ào ào như thác nước trước mặt ghềnh, nhỡn giới ông vòi vọi như mong ngóng một cái bến xa nào đó. Thân hình như chất sừng chất mun. Ông sẵn sàng tình nguyện chở một phái đoàn Trung ương vưà lên vưà xuống thăm dò khảo sát sông Đà từ Hà nội cho đến biên giới Trung Quốc. Ông bỏ nghề lâu rồi nhưng nay còn “ dám thi đua với bạn đò khắp mấy châu..
Đó là hình ảnh người lao động mới, khoẻ khoắn, làm chủ, đầy tinh thần thi đua
2. Tính cách ông lái đò:
a.Tính cách nghệ sĩ trong tài thuật chèo đò
Nghề chở đò dọc cuả ông đã đạt tới trình độ “tài thuật” ( chữ cuả Nguyễn Tuân ) . Ông xuôi dòng, ngược dòng, xuống thác, qua giếng hút, qua thạch trận, hiểm nguy ông coi thường. Ông thuộc con song Đà như thuộc một trường thiêh anh hùng ca..Ông nhớ mặt từng hòn đá, ông thuộc đặc điểm từng quãng sông. Chẳng hạn quãng Hát loóng: “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy..”Ông từng thi đua với nhà đò nghệ thuật xuống thác sao cho con thuyền vào đúng luồng tim nước, không để nước bắn lên sọt hàng. Có khi xuống thác ông còn ngủ gật ( ý nói tài nghệ đã đạt đến nghệ thuật, vượt qua hiểm nguy)
b. Tính cách dũng cảm trên chiến trường sông Đà
Ông lái đò như một vị tướng từng trải trên chiến trường sông Đà. Ông nhận diện rõ việc bày binh bố trận ba lớp trùng vi, boong ke, pháo đài, quân tiền quân hậu. Ông nắm được được binh pháp cuả thần sông thần đá, biết thay đổi chiến thuật cuả từng trận đánh .Ở trùng vi thứ hai, ông thay đổi chiến thuật, cưỡi lên thác sông Đà như là cưỡi hổ. Lúc xông trận, giưã sóng nước sông Đà như quân liều mạng, ông bình tĩnh như một vị tướng. Người ta vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy cuả ông trong tiếng reo hò thanh la não bạt cuả binh hùng tướng dữ sông Đà. Ông vượt qua cử sinh cưả tử, vượt qua sống chết, như chuyện bình thường, rồi ngồi trong hang đá, nướng ống cơm lam, kể chuyện cá dầm xanh, cá anh vũ...
3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
Hình tượng ông lái đò là một hình tượng kỳ vĩ , bởi vì ông lái đò được miêu tả trên nền con song đà kỳ vĩ,“ Trên thác hiên ngang một người lá đò song Đà có tự do, vì người lái đò ấy đã nắm được cái quy luật tất yếu cuả dòng nước sông Đà “. Nguyễn Tuân đặt nhân vật vào những thử thách cam go để lộ ra những phẩm chất riêng, chẳng hạn Ông lái đò trên chiến trường sông Đà
Đó là hình tượng con người chiến thắng thiên nhiên, như Sơn Tinh thắng thuỷ Tinh xưa. Ông làm chủ thiên nhiên khác với người lao động cũ bị hoàn cảnh đè bẹp.
Đó là hình tượng con người lao động mới : con người tự do, con người làm chủ, con người đầy sức mạnh, đang âm thầm góp phần xây dựng đất nước.
4.Thái độ cuả Nguyễn Tuân :
Nguyễn Tuân gần gũi, yêu thương nhân vật cuả mình . Ông gọi đồng tiền tụ máu trên ngực ông lái đò là một thứ “ huân chương lao động siêu hạng “ . Đó là cách Nguyễn Tuân ca ngợi ông lái đò. Ông đáng được thương huân chương siêu hạn vì chiến thắng thiên nhiên, làm chủ cuộc đời và âm thầm góp phần xây dựng cuộc sống
Cách nhìn và miêu tả như vậy biểu hiện sự thay đổi về chất trong phong cách nghệ thuật cuả Nguyễn Tuân sau CM/tháng Tám. Ông vẫn tiếp cận con người ở phương diện tài hoa- nghệ sĩ, nhưng Ông không còn NGÔNG. Nhân vật không còn là dân tuyển như Huấn Cao ( chữ Người Tử Tù ) mà là công dân dũng cảm, tài hoa.
_______________________________________________
ÔN THI ĐH-NGUYỄN TUÂN-CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
Ôn thi Đại học
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ Bùi Công Thuấn
Nguyễn Tuân là một tác gia thường được ra thi. Chữ Người Tử Tù và Người Lái đò Sông Đà tiêu biểu cho hai thời kỳ sáng tác của ông. Đồng thời thể hiện sự thay đổi về chất trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Đề ra về Nguyễn Tuân khá đa dạng, tuy nhiên vẫn nằm trong hai tác phẩm trên. Cần học kỹ tiểu sử, sự nghiệp văn chương, đặc điểm con người và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT HUẤN CAO TRONG CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
(Dàn ý chi tiết)
NGUYỄN TUÂN TẬP TRUNG MIÊU TẢ NHÂN VẬT HUẤN CAO
Nhân vật Huấn Cao gây được ấn tượng sâu đậm là do cách Nguyễn Tuân (NT) khắc họa nhân vật. Trước hết NT miêu tả gián tiếp qua nhận thức cuả quan ngục.
Khi nhận trát giao tù, Quan ngục đã nghe vang danh HC :” Đứng đầu bọn phản nghịch “, nổi tiếng về “ cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp “. Ngoài tài viết chữ tốt Huấn Cao còn có tài bẻ khoá và vượt ngục nưã “. “ văn võ toàn tài “. “ Một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ “. Quan ngục muốn biệt đãi Huấn Cao, trong mắt nhìn HC, Quản ngục có lòng kiêng nể. Những miêu tả ấy tạo nên ám ảnh khiến người đọc chờ đợi được đối diện trực tiếp với HC
Trong cảnh xuất hiện trước cưả ngục, HC ngang tàng, coi khinh bọn quan ngục.
Trong cảnh đối diện trực tiếp với quản ngục : HC khinh bạc đến điều nhưng ngạc nhiên về thái độ quản ngục. HC thổ lộ tâm sự : Chí lớn không thành
Trong cảnh cho chữ ở cuối truyện : HC lẫm liệt trong ánh sáng cuả cái đẹp, khí phách và thiên lương . NT dành cho HC tất cả sự tôn vinh khi để Ngục Quan “ vái người tù một vái “.
Ngôn ngữ của NT khi viết về HC là ngôn ngữ ngợi ca. Nguyễn Tuân cho HC xuất hiện dần dần, bắt đầu bằng tiến đồn vang dội, bằng sự chuẩn bị nghiêm nhặt cuả Quản ngục, bằng thái độ biệt đãi và trọng nể cuả quản ngục. Rồi HC xuất hiện trực tiếp, lời nói, cử chi khinh bạc đến điều, và sau cùng, trong cảnh cho chữ, HC lẫm liệt, khoan dung, trong ánh sáng rực rỡ cuả cái đẹp, khí phách và thiên lương.
VẺ ĐẸP CUẢ HÌNH TƯỢNG HUẤN CAO
1.Vẻ đẹp cuả một tài hoa khác thường
a. Đó là “ tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp “. “ chữ cuả HC đẹp lắm , vuông lắm” ..” nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành cuả một đời con người “.
Người xưa có thú chơi chữ tao nhã : treo ở nhà một đôi câu đối cuả một người nổi tiếng văn chương đức độ. Những câu đối ấy vưà có cái đẹp cuả thư pháp vưà có cái hay cuả nội dung và nghệ thuật văn chương, lại vưà chưá đựng những ý tứ thâm trầm cuả cả người cho chữ và người xin chữ . Thường thì người xin chữ nói ra ra sở nguyện cuả mình để người cho chữ tuỳ theo sở nguyện ấy mà viết. Trong lời khuyên cuả HC với quan ngục , HC nó đến yêu cầu cuả việc chơi chữ “ Thầy quản nên tìm về quê ở đã ..rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ “
Chơi chữ chính là sự thể hiện cuả cái đẹp, mà cái đẹp chính là yếu tính cuả nghệ thuật cuả tài hoa . Tài viết chữ, cho chữ cuả HC chính biểu hiện cuả một tài hoa khác thường ( cần lưu ý HC không phải là một nghệ sĩ , nhưng HC là một con người tài hoa )
b. Khác thường ở :
HC là người “ chọc trời khuấy nước “ chỉ nghĩ đến “ chí lớn “, “ ông ít chịu cho chữ “. HC bảo : “ đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân cuả ta thôi “ nghiã là chữ cuả HC rất hiếm có , đồng thời không dễ gì xin được chữ HC. “ Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà èp mình viết câu đối bao giờ “
Vì thế chữ cuả HC trở thành một báu vật. Chính Quan ngục nhận thức rõ điều này : “Có được chữ ông HC mà treo là có một báu vật trên đời “
Quan ngục lao tâm khổ trí ( thức suốt đêm suy nghĩ “ băn khoăn bóp thái dương “ ), bất chấp luật pháp triều đình để hậu đãi HC (Quan ngục thổ lộ với HC : “ sợ đến tai lính tráng họ biết , thì phiền luỵ riêng cho tôi nhiều lắm “ ), chấp nhận sự khinh bạc sỉ nhục cuả HC (HC nói “ cố ý làm ra khinh bạc đến điều “, quan ngục “chỉ lễ phép lui ra với một câu : xin lĩnh ý” ). Toàn bộ sức lực, tâm huyết cuả quan ngục là dồn vào việc xin chữ HC, Quan ngục “tái nhợt người đi sau khi tiếp nhận công văn “ giải HC vào kinh thọ án.Trong tình thế ấy, ông phải chấp nhận một giải pháp nhiều rủi ro là nhờ Thầy Thơ lại đến gặp HC .
Chính tài hoa khác thường cuả HC ( thực chất là cái đẹp ) có sức cảm hoá quản ngục. Sau khi HC viết xong bức châm và khuyên bảo quan ngục , “ Ba người nhìn bức châm , rồi lại nhìn nhau “ . Tất cả cùng hướng về cái đẹp, lặng im chiêm ngưỡng và suy tư . Cái đẹp ( bức châm ) trở thành yếu tố trung tâm cuả mọi quan hệ, hoá giải mọi sự thù nghịch. HC và Quan ngục trở nên như hai người bạn “ tri kỷ “ .
Chắc chắn Quan ngục sẽ nghe theo lời HC. Ông sẽ về quê, thoát khỏi cái nghề làm tay sai, để giữ thiên lương cho lành vững. Ở nơi ấy ông sẽ treo “ một bức luạ trắng với những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên hoài bão tung hoành cuả một đời con người “
2. Vẻ đẹp cuả một “ thiên lương “ trong sáng
Trong lời khuyên cuả HC với Quan ngục , HC nhấn mạnh đến Thiên lương. Phải giữ Thiên lương lành vững đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Như vậy Thiên lương là yếu tố căn bản con người phải có để tiếp nhận cái đẹp .
Nhưng thiên lương là gì ? đây là chữ Nguyễn Tuân sáng tạo ra để nói cái lẽ thiện uyên nguyên (trời sinh) cuả con người.“Nhân chi sơ , tính bản thiện“ : con người lúc mới sinh ra, bản tính vốn thiện.
Thiên lương là cốt lõi cuả nhân cách. Nhân cách cuả một con người trước hết phải là nhân cách một đời lương thiện. HC nhấn mạnh rằng nếu không giữ được thiên lương lành vững thì “ rồi cũng nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi “ ( trước kia HC khinh miệt quan ngục, vì trong mắt HC, Quan ngục chỉ là công cụ tay sai cuả bọn thống trị, quan ngục là công cu tội ác. Hàng ngày Quan ngục phải hành xử ác. Mấy tên lính, khi nói quan ngục để tâm đến HC là “ có ý nhắc viên quan ngục còn chờ đợi gì mà không giở những mánh khoé hành hạ thường lệ ra “. HC cũng biết rõ, sau khi nói những lời khinh bạc vào mặt quan ngục, HC đã “ chờ đợi một trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo cuả Quan ngục” )
Thiên lương cuả Huấn cao là gì ? lẽ thiện cuả HC là gì ? vẻ đẹp nhân cách cuả HC là gì ? Đây mới chính là điều làm cho Quan ngục nể trọng, từ đó lắng nghe lời HC dạy bảo .
Thiên lương cuả HC là lẽ thiện đứng về phiá nhân dân, chống lại triều đình, để bị kết tội làm giặc, phải nhận án chém. Nhân cách cuả HC là nhân cách một con người “ văn võ toàn tài “, cuả đấng trượng phu “ uy vũ bất năng khuầt , phú quý bất năng dâm , bần tiện bất năng di :” ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế ép mình viết câu đối bao giờ “ . Quan ngục cũng biết rõ :” y cũng thưà hiểu những người chọc trời khuấy nước , đến trên đầu người ta , người ta cũng chẳng còn biết có ai nưã ..”
Vẻ đẹp cuả thiên lương HC còn thể hiện ở mối quan hệ tri kỷ người với người, “ một tấm lòng trong thiên hạ ‘ Khi nghe thầy thơ lại nói lại cái sở nguyện cuả Quan ngục, và suốt thời gian trong ngục suy nghĩ về hành động cuả quan ngục, HC đồng ý cho chữ . Lòng HC bồi hồi cảm động : “ Ta cảm cái lòng biệt nhỡn hiền tài cuả các người . Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nưã, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ “
Gọi thiên lương cuả HC là thiên lương trong sáng cao đẹp vì tất cả đều sáng tỏ, minh nhiên giưã thiên hạ. HC đã dấn thân và đánh đổi chính mạng sống cuả mình cho lẽ thiện ấy, HC công khai lẽ thiện ấy như là chính bản thể cuả mình “Có nhiều đêm nghĩ đến chí lớn không thành “ HC khẳng định “ .. bao nhiêu điều quan trọng , ta đã khai bên ti niết cả rồi. Ta đã nhận cả. Lời cung ta đã kí rồi ..” . Trước khi vào cõi vĩnh hằng, HC cũng truyền lại cái lẽ thiện ấy cho Quan ngục. HC nói một cách tâm huyết, trang trọng và Quản ngục cũng kính cẩn chân thành “ xin bái lĩnh “
Chính vẻ đẹp cuả thiên lương ấy, vẻ đẹp cuả nhân cách ấy cuả HC mới thực sự có sức cảm hoá Quản ngục. Và khi thiên lương ấy kết hợp với tài hoa ấy đã toả sáng những sắc màu khác thường ở HC .
3. Vẻ đẹp cuả một khí phách lẫm liệt :
Khí phách ấy biểu hiện ở chỗ nhà tù, sự tàn bạo, án chém… không hề làm HC nao núng, bận tâm. Trong nhà ngục, HC ung dung lẫm liệt trong tư thế xuất hiện, trong lời ăn tiếng nói, trong suy nghĩ hành xử. (Trước cưả ngục, HC không bận tâm đến những lời đe doạ cuả lính tráng và sự ra uy cuả Quan ngục. Đối diện với Quan ngục, HC nói những lời sỉ nhục y, cố ý làm ra khinh bạc đến điều. Khi nhận lời Quan ngục, HC nói những lời đầy uy lực : “ Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bai giờ ‘. HC còn ung dung cảm nhận được mùi mực thơm: “ thoi mực , thầy mua ở đâu mà tốt và thơm quá . Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không ? “ )
Thường thì tội nhân lãnh án tử hình , trong thời gian chờ thọ án, họ đều trầm uất, nổi loạn , vưà sợ hãi vưà ăn năn hối tiếc.Trái lại HC rất thanh thản. HC có suy nghĩ là suy nghĩ về “ tấm lòng trong thiên hạ “ cuả Quan ngục. HC ung dung lẫm liệt trong cảnh cho chữ, dồn hết tâm lực vào bức châm, hơn thế HC còn hướng đến những điều cao sâu hơn việc cho chữ, chơi chữ, đó là sự cảm hoá con người.
Khí phách này có uy lực làm Quan ngục phải có “ lòng kiêng nể “, buộc Quan ngục phải nhất nhất tuân lệnh (Quan ngục thưa với HC : “ xin lĩnh ý “,“ kẻ mê muội này xin bái lĩnh “ ). Hơn thế, đứng bên HC, Quan ngục phải “ khúm núm “, còn thầy thơ lại thì “run run “. Uy lực cuả HC vang dội cả tỉnh Sơn Hưng Tuyên, và vang dội đến trong Kinh, đến nỗi quan Hình Bộ Thượng Thư bắt phải giải HC vào trong kinh thọ án .
Đó là khí phách tầm vóc lớn cuả người anh hùng. Nguyễn Tuân mượn chữ cuả Nguyễn Du tả Từ Hải để nói về HC: “ HC chí lớn không thành, là người chọc trời khuấy nước “ ( Từ Hải ; Chọc trời khuất nước mặc dầu / dọc ngang nào biết trên đầu có ai ) .
HC trở thành người chủ động, người đứng trên cao, người dạy bảo Quản ngục. HC là người chiến thắng, chiến thắng nhà ngục ( Quản ngục và lính tráng trở thành kẻ phục vụ ), chiến thắng bọn thống trị (Quản ngục phải khuất phục trước HC ), chiến thắng cái chết (Khi HC bước vào cõi vĩnh hằng thì chính Quan ngục là người đang giữ cái tài hoa cuả HC, đang thực hiện thiên luơng cuả HC, là người không còn cam chịu thân phận nô lệ, làm công cụ cho thống trị và sự tàn bạo. Quan ngục sẽ bỏ về quê , ấy là sở nguyện cuả HC ) .
4. Giá trị cuả hình tượng HC:
Cả ba vẻ đẹp quyện vào nhau làm nên một vẻ đẹp lý tưởng. HC là nhân vật lý tưởng. Nhân vật HC chưá đựng lý tưởng thẩm mỹ, chưá đựng tư tưởng tình cảm cuả Nguyễn Tuân .
Người đọc biết rằng nguyên mẫu cuả Huấn Cao là nhà thơ Cao Bá Quát ( 1808-1855 ), một người nổi tiếng văn chương và khí phách (người đương thời truyền tụng : “ văn như Siêu Quát vô Tiền Hán : Văn mà như ông Nguyễn Văn Siêu , Cao Bá Quát , thời Tiền Hán ở Trung Quốc không ai sánh bằng ). Cao bá Quát cao ngạo, chán nghét chế độ phong kiến, ông đi theo nghiã quân chống lại triều đình nhà Nguyễn và hy sinh. ( năm 1854, Cao Bá quát tham gia khởi nghiã Mỹ Lương do Lê duy Cự làm minh chủ. Ông bị nhà Nguyễn tru di tam tộc). Qua hình tượng HC, Nguyễn Tuân cũng bày tỏ thái độc khinh bạc chán ghét chế độ thực dân phong kiến đương thời, gián tiếp bày tỏ tình cảm yêu nước mơ hồ
Giai đoạn 1930-1945, đa số tử tội trong nhà tù Thực Dân là chiến sĩ Cách mạng. Trước đó, Phan Bội Châu từng bị TD Pháp kết án tử hình. Năm 1930 Nguyễn Thái Học và 13 đồng chí Việt Nam Quốc Dân Đảng bị TD đưa lên máy chém.. Phiên toà đại hình 2/5/1933 xử 120 người CM trong đó có 8 người bị kết án tử hình, 19 người chung thân, 79 người từ 5 đến 20 năm tù. Các đồng chí Trần Phú , Ngô Gia Tự , Nguyễn Đức cảnh , Lý Tự Trọng đều nêu gương lẫm liệt trước kẻ thù. Lý Tự Trọng tuyên bố trước mặt kẻ thù : “ con đường cuả thanh niên chỉ có thể là con đường CM “ và hát vang bài Quốc Tế Ca khi lên máy chém. Như vậy ca ngợi HC, một người tù làm giặc bị án chém, chính là gián tiếp ca ngợi các chiến sĩ CM
Thực ra Chữ Người Tử Tù không trực tiếp miêu tả hành động đấu tranh chống lại triều đình cuả HC . Người đọc không rõ HC đã làm những gì. Chỉ biết phong thanh rằng HC “ Chí lớn không thành “ , “ chọc trời khuấy nước, “ văn võ toàn tài “, “ làm giặc ..”, vì thế không thể tìm thấy tư tưởng yêu nước cụ thể cuả Nguyễn Tuân ( ta gọi là yêu nước mơ hồ là vì vậy ) điều này có thể là do bút pháp Lãng mạn, cũng có thể Nguyễn Tuân muốn tránh sự truy xét cuả mật thám Pháp. Nguyễn Tuân đã từng bị mật thám Pháp bắt giam vì tội giao du với người hoạt động chính trị.
Xét về mặt hình tượng nghệ thuật , Huấn cao là một hình tượng độc đáo. Cả văn chương lãng mạn và văn chương Hiện Thực 1930-1945 không có một hình tượng nào như thế. HC vưà có những nét cổ điển vưà hiện đại. Đó là kiểu nhân vật trượng phu xưa “ đội trời đạp đất ở đời “, vưà thấp thoáng bóng dáng những chiến sĩ CM kiên cường bất khuất đương thời, lại vưà có nét riêng là vưà tài hoa rất mực vưà khí phách lẫm liệt. HC xuất hiện trong một cấu trúc truyện đầy tính kịch, trong một “ cảnh xưa nay chưa từng có ‘, hình tượng HC càng toả sáng những ánh sáng chói lọi. HC thể hiện đầy đủ tư tưởng thẩm mỹ cuả Nguyễn Tuân. Cái đẹp, cái cao cả anh hùng chiến thắng cái xấu , cái nô lệ thấp hèn.
__________________________________________________
NHÂN VẬT QUAN NGỤC
1. Quan ngục đươc miêu tả như thế nào ?
Quan ngục được miêu tả trực tiếp trong tất cả các cảnh. Đầu tiên là cảnh quan ngục nhận trát báo sắp chuyển giao Huấn Cao. Quan ngục bàn bạc với thầy thơ lại. Sau đó là chân dung quan ngục thao thức trong đêm suy nghĩ về HC : “người ngồi đấy , đầu đã điểm hoa râm , râu đã ngả màu.. Những đường nhăn nheo cuả bộ mặt tư lự , bây giờ đã biết mất hẳn. Ở đấy , giờ chỉ còn là mặt nước ao xuân , bằng lặng , kín đáo và em nhẹ”
Nguyễn Tuân trực tiếp nhận xét , giới thiệu với một tình cảm ưu ái trân trọng : “ Trong hoàn cảnh đề lao , người ta sống bằng tàn nhẫn , bằng lưà lọc , tính cách dịu dàng và lòng biết giá người , biết trọng người ngay cuả viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giưã một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ .” ông chính là “ cái thuần khiết giưã đống cặn bã , là “ người ngay thẳng phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt ..”
Nguyễn Tuân cũng vẽ những nét rất tinh và rất sắc xảo, sống động về quan ngục. Quan ngục dõi “ cặp mắt hiền lành với 6 tên tù và có biệt nhãn với riêng HC “ lúc ông nhận tù . Dáng vẻ “ khúm núm lúc Quan ngục đứng bên HC trong cảnh cho chữ, và chi tiết kết thúc truyện “ ngục quan cảm động , vái người tù một cái , chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào : “ kẻ mê muội này xin bái lĩnh “
2. Quan ngục có những phẩm chất gì ?
Quan ngục là người “ biết đọc vỡ nghiã sách thánh hiền “ tức là có học, có một nền tảng đạo lý, có những phẫm chất cuả một “ người quân tử “ xưa, vì thế mới có “ tấm lòng trong thiên hạ “, mà cốt lõi là lòng Nhân, mới có “ tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay”. Chính ở phẩm chất căn bản này, Quan ngục mới gặp gỡ được với tấm lòng cuã HC
Quan ngục còn có sở nguyện là “ một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông HC viết “, tức là sở nguyện về cái đẹp. Thực ra là sở nguyện về cả những tài hoa, thiên lương và khí phách HC thể hiện trong câu đối. Một người có sở nguyện về cái đẹp như một mục đích sống, dốc hết tâm trí sức lực để có được cái đẹp, dám đánh đổi mọi hiểm nguy ruỉ ro, kể cả phải chịu sỉ nhục vì cái đẹp, hẳn con người ấy đáng mặt tri kỷ cuả HC. Những lời HC nói với Quan ngục là lời cuả tri kỷ. HC và quan ngục không còn là hai kẻ thù nghịch, không còn hoài nghi khinh miệt, mà là sự trân trọng rất mực. HC đỡ Quản ngục đứng thẳng lên, còn quản ngục vái HC một vái, lòng đầy cảm động .
Cũng cần kể đến những nét đẹp khác cuả quản ngục, chẳng hạn lòng tự trọng và giữ chữ tín trước Huấn Cao. HC muốn Quan ngục “ đừng đặt chân vào đây “, thì từ đó Quan ngục không bao giờ đến gặp HC, dù rằng như thế, Quan ngục đang lâm vào tình trạng bế tắc, nếu không nói là khủng hoảng . Không tiếp cận HC, làm sao Quan ngục xin được chữ cuả HC. Quan ngục đã mất bao nhiêu công sức lao tâm khổ trí để gần HC, giờ đây việc ấy vụt ngoài tầm tay. Khi nhận trát áp giải HC vào kinh thọ án , Quan ngục đã tái nhợt người đi.
Sống trong cảnh đề lao, trong sự tàn nhẫn lọc lưà nhưng Quan ngục vẫn giữ được “ thiên lương , giữ được “đời lương thiện “ như HC nhận xét, đó là một nét son cuả Quan ngục. Căn cứ vào những phẩm chất ấy cuả Quan ngục, người đọc tin rằng Quan ngục sẽ thực hiện lời HC khuyên bảo. Mặc dù điều này là rất khó
Bảo Quan ngục bỏ về quê ở, là bỏ môi trường sống, bỏ quyền lực, bổng lộc, trở về làm một người bình thường, sẽ chẳng thế nào thực hiện được. Bỏ tất cả để giữ lấy thiên lương , để sống đời lương thiện để chiêm ngưỡng một bức luạ óng có chữ cuả một tử tù, dường như sẽ là một ảo tưởng đối với người thường. Nhưng căn cứ vào phẩm chất và tính cách cuả HC, người đọc tin rằng Quan ngục sẽ làm được. Bởi vì lời HC là lời nói sau cùng cuả một tri kỷ, lời tâm huyết cuả một đời người giác ngộ lẽ sống có thiên lương, lời ấy lại được đặt trên nền cuả “ cái đẹp “ là sở nguyện một đời cuả Quan ngục. Hành động vái người tù cuả Quan ngục là một hành động tiếp nhận có giá trị thiêng liêng, như trong một buổi lễ truyền đạo , tâm truyền giưã HC và quan ngục .
Quản ngục là hiện thân cuả một cái đẹp khác , cái đẹp hiện thực bên cạnh cái đẹp lý tưởng cuả HC .Cả hai cái đẹp này tạo nên một hoà âm vưà có những âm sắc nghịch vưà có những giai điệu thuận, tính thẩm mỹ cuả tác phẩm đạt đến một trình độ rất cao
Có sự chuyển hoá quan trọng ở nhân vật Quan ngục . Ở đầu truyện, quan ngục là một người đầy quyền uy. Những trát lệnh, công văn, những lệnh truyền quân canh tăng cường canh phòng cẩn mật, những tàn bạo thị uy ..Những quyền uy ấy là quyền uy công cụ thống tri, quyền uy tội ác. Đến cuối truyện, Quan ngục trở thành người tri kỷ cuả HC, chuyển hoá hoàn toàn thành con ngườ cuả cái đẹp , thiên lương và nhân cách. Không còn là công cụ cuả sự thống trị tàn bạo. Nhân vật Quản ngục cũng thực hiện tư tưởng cuả tác phẩm. Không có quản ngục, HC không thể bộc lộ những vẻ đẹp cuả mình , chủ đề cái đẹp , cái cao cả cái anh hung chiến thắng cái xấu , cái thập hèn nô lệ không thể toả sáng.
Nhân vật Quan ngục còn tạo ra dư âm cuả truyện. Truyện kết thúc, HC bước bào cõi vĩnh hằng, nhưng câu truyện vẫn còn tiếp tục. Quan ngục sẽ bỏ nghề coi ngục mà vế quê, thực hiện lới HC, lúc ấy chủ đề truyện mới thực sự trọn vẹn. Điều này tạo nên bao nhiêu mỹ cảm trong lòng người đọc.
Kết luận : nếu HC là nhân vật lý tưởng rất khó vươn tới, thì Quan ngục lại là một nhân vật hiện thực có sức thuyết phục. Tuy nhiên ở một khiá cạnh nào đó, Quản ngục cũng là một dạng nhân vật lý tưởng khác trong quan điểm thẩm mỹ cuả Nguyễn Tuân. Vì trong cảnh đề lao, giưã đống cặn bã, cùng những bọn người quay quắt, người ta sống bằng tàn nhẫn bằng quyền uy, thì không dễ gì có sự chuyển hoá, càng khó có thể chỉ vì một bức luạ có chữ đẹp mà Quan ngục có thể đánh đổi tất cả. Ấy cũng là đặc điểm bút pháp lãng mạn cuả Nguyễn Tuân.
________________________________________
ÔN THI ĐH -NAM CAO -ĐỜI THỪA
TÁC PHẨM ĐỜI THƯÀ
1.Hoàn cảnh sáng tác: Đăng lần đầu trên báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy. 1943
2.Tóm tắt truyện
Từ muốn nói chuyện với chồng, nhưng thấy Hộ đọc sách chăm chú quá Từ lại thôi.Từ hồi tưởng lại việc Hộ đã cứu vớt mình khi Từ bị phụ tình, và lo đám ma cho mẹ Từ, bao nhiêu là ân nghiã. Từ trở thành người vợ rất ngoan rất phục tùng và rất tận tâm, đáng lẽ thì Hộ phải sung sướng lắm.
Nhưng Hộ chỉ sung sướng được mấy năm. Lúc ấy, hắn chỉ nghĩ đến gia đình, chỉ cốt làm sao nuôi được gia đình. Hộ vốn nghèo. Hắn là một nhà văn. Hộ viết thận trọng nên chỉ kiếm được vưà đủ sống eo hẹp. Nhưng lúc ấy hắn có một mình, lại là một gã trẻ tuổi say mê lý tưởng, hắn coi khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất.Với hắn “ nghệ thuật là tất cả”. Thế rồi, từ khi gắn đời hắn vào đời Từ, hắn có cả một gia đình để chăm lo. Hắn phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng. Hắn nhận ra hắn là một kẻ bất lương, một người thưà. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì cho văn chương. Hắn buồn và đau đớn lắm. Có lúc hắn nghĩ “ phải biết ác , biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ “, nhưng hắn không thể bỏ lòng thương. Hắn là người chứ không phải một thứ quái vật. Hộ Điên người vì lo xoay tiền. Hắn khổ quá, bực bội quá, bỏ nhà đi , uống rượu rồi về hành vợ con. Có lúc hắn muốn quật một nhát cho chết hết cả vợ con. Có lúc hắn thừ người ra “ thôi thế là hết! Ta đã hỏng! ta đã hỏng đứt rồi”. Hắn ra về lòng rũ buồn.
Lần đầu, Từ sửng sốt, nhưng rồi Hộ xin lỗi và hôn các con. Hắn tuyên bố chưà rượu, được khá lâu, nhưng rồi lại uống, lại say, lại làm những trò vưà buồn cười, vưà đáng sợ. Nhiều lần, Từ muốn ẵm con bỏ nhà đi, Từ muốn bỏ liều con để đi làm, nhưng Từ mềm yếu. Từ rất yêu chồng và nhận ra Hộ cũng rấy yêu vợ, yêu con. Từ không dám xa hắn. Từ cố gắng sống ngoan ngoãn hơn, đáng yêu hơn. Từ nhịn ăn nhịn mặc, để bớt tiêu tiền. Từ thu nhà ngăn nắp, ngăn tiếng khóc trẻ con và sợ cả nói với chồng
Nhân lúc Hộ ngưng đọc và nói với vợ về một đoạn văn hay, Từ mới nhắc chồng hôm nay mồng hai, mồng ba Tây. Hộ bảo phải đi xuống phố lấy nhuận bút. Hộ hưá lấy tiền xong không đi đâu cả và mua cái gì cho cả nhà ăn. Ở toà báo ra, Hộ đi thẳng tới một hiệu thịt quay, hắn định mua mấy haò thịt và bánh Tây cho con. Bất chợt gặpTrung. Trung nói về quyển Đường Về sắp được dịch sang tiếng Anh và nhuận bút tới ba nghìn đồng.. Thế là Hộ quên hẳn vợ con, cùng với Trung đi uống bia, rồi tiếp tục đi uống rượu để bàn chuyện văn chương, nói những chuyện vá trời lấp biển..
Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, Hộ thấy nhà cưả vẫn gọn gàng ngăn nắp. Hộ nhớ lại sự việc tối qua. Từ nằm ngủ trên võng. Hộ thấy Từ khổ cả trong cái tướng ngủ. Hộ đến bên Từ, hắn bật khóc nhận mình là “ thằng khốn nạn “. Từ thức giấc,ôm đầu Hộ áp vào ngực mình bảo “ không, anh chỉ là một người khổ”. Đưá con cũng khóc. Từ ru con bằng một bài ca dao buồn.
Chủ đề: kể lại tình cảnh nhân vật Hồ, Nam Cao miêu tả những bi kịch tinh thần cuả người trí thức tiểu tư sản trong xã hội cũ. Người trí thức, có tài năng, có lý tưởng, hoài bão, muốn sống có ích, nhưng phải sống đời thưà: “ Còn gì đau đớn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt “.
____________________________________
Phân tích bi kịch tinh thần của Hộ trong Đời Thừa
Khái niệm bi kịch :
Kịch phương Tây có các thể loại : Bi kịch , hài kịch, chính kịch, kịch lịch sử. Hài kịch khai thác cái hài ( cái cười ). Bi kịch (Danh từ) khai thác cái bi ( cái buồn ) như bi kịch Hamlet, Roméo và Juliette cuả Shakespear, kết thúc khi các nhân vật chính chết trong khát vọng. Bi kịch ( nghĩa Tính từ) diễn tả trạng thái tâm hồn cuả con người khi có một khát vọng mãnh liệt bị hoàn cảnh ngãng trở, đè bẹp không thực hiện được. Chẳng hạn, Chí Phèo có khát vọng mãnh liệt muốn trở về làm người lương thiện, nhưng không được, Chí chết trong khát vọng ấy. Tình trạng cuả Chí là tình trạng bi kịch
Để trình bày bi kịch, ta cần xem xét khát vọng cuả nhân vật là gì ? thực thế đã ngãng trở khát vọng ấy ra sao, và tâm hồn nhân vật lâm vào trạng thái gì ?
BI KỊCH TINH THẦN CỦA NGƯỜI TRÍ THỨC
1.Bi kịch “vỡ mộng văn chương”(hay bi kịch về lý tưởng)
Moäng vaên chöông : sự nghiệp văn chương là Lý tưởng cuả Hộ . Hộ dồn hết sức lực tâm huyết cho lý tưởng ấy . “Ðói rét không có nghĩa lý gì đối với gã trẻ tuổi say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp. Ðầu hắn mang một hoài bão lớn”.” Ðối với hắn lúc ấy, nghệ thuật là tất cả; ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa. Hắn băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời...”. Hộ tự nhận thức về sự chọn lựa lý tưởng của mình: “tôi mê văn quá nên mới khổ. Ấy thế, mà tuy khổ thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi”.
Hộ tan vỡ mộng văn chương, bởi vì Hộ không viết được, càng không viết được cái gì cho ra trò.”Hắn phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng. Hắn phải viết những bài báo để người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc”, ” Hắn đã viết những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương” Hắn nhận ra thực tế này : "Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi". Và hắn nghĩ đến cái tên hắn đang mờ dần đằng sau những tên khác mới trồi ra, rực rỡ hơn...”
Hộ lâm vào trạng thái bi kịch của sự sụp đổ lý tưởng, bi kịch đánh mất mình, trạng thái vong thân.” Hắn thấy mình khổ quá, bực bội quá. Hắn trở nên cau có và gắt gỏng. Hắn gắt gỏng với con, với vợ, với bất cứ ai, với chính mình. Và nhiều khi, không còn chịu nổi cái không khí bực tức ở trong nhà, hắn đang ngồi bỗng đứng phắt lên, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm, vùng vằng đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn. Hắn đi lang thang, không chủ đích gì”.” Hắn thừ mặt ra như một kẻ phải đi đày, một buổi chiều âm thầm kia, ngồi trong một làn khói nặng u buồn mà nhớ quê hương. Hắn cũng nhớ nhung một cái gì rất xa xôi... những mộng đẹp ngày xưa... một con người rất đáng yêu đã chẳng là mình nữa.”
Đối với người trí thức, sự sụp đổ lý tưởng cũng chính là sự sụp đổ của sự tồn tại. Anh ta sống mà không còn tồn tại nữa. Cái bi kịch là ở chỗ phải ý thức về sự vong thân ấy.
2.Bi kịch “người thừa” hay bi kịch về lương tâm
Hộ có ý thức sâu sắc về trách nhiệm của ngòi bút. Có yêu cầu đúng đắn về sự sáng tạo. “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có”. HỘ có khát vọng viết những tác phẩm lớn.” Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái (5), sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn.”Hộ ý thức rõ đạo đức nghề nghiệp:” Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê” tiện.
Nhưng thực tế đã bắt Hộ chà đạp lên đạo đức, lương tâm của chính mình.” Hộ điên người lên vì phải xoay tiền. Hắn còn điên lên vì con khóc, nhà không lúc nào được yên tĩnh để cho hắn viết hay đọc sách.”. ” Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương”.
Hộ lâm vào bi kịch người thừa. “Thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích, một người thừa.”.”Hắn nghĩ thế và buồn lắm, buồn lắm! Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình? Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?”Hàng ngày đối diện với trang giấy trắng, hắn lại tự nguyền rủa mình là kẻ khốn nạn.” Rồi mỗi lần đọc lại một cuốn sách hay một đoạn văn ký tên mình, hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng vò nát sách và mắng mình như một thằng khốn nạn... Khốn nạn! Khốn nạn! Khốn nạn thay cho hắn! Bởi vì chính hắn là một thằng khốn nạn! Hắn chính là một kẻ bất lương!”
3.Bi kịch lẽ sống (hay bi kịch gia đình)
Hộ sống bằng triết lý tình thương. HỘ cưu mang Từ và quyết liệt giữ lấy lý tưởng sống yêu thương. “hắn không thể bỏ lòng thương; có lẽ hắn nhu nhược, hèn nhát, tầm thường, nhưng hắn vẫn còn được là người: hắn là người chứ không phải là một thứ quái vật bị sai khiến bởi lòng tự ái. Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỷ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình”
Thế nhưng cuộc sống dần dần làm tha hóa Hộ, biến Hộ thành kẻ ác. Hộ gây ra bao điều đau khổ cho Từ và cho chính mình. Đến nỗi nhiều lần Từ định bỏ đi. Đã có lúc Hộ làm Từ khiếp sợ vì cái ác đe dọa.” - Ngày mai... mình có biết không?... Chỉ ngày mai thôi! Là tôi đuổi tất cả mấy mẹ con mình ra khỏi cái nhà này... Tôi đuổi tất, không chừa một đứa nào, kể cả con bé Thảo là con ngoan nhất... Mấy đứa kia đều đáng vật một nhát cho chết cả! Chúng nó chỉ biết ăn với hét! Cả con mẹ nữa, con mẹ là mình ấy... cũng đáng vật một nhát cho chết cả!”
Hộ triền miên sống trong bi kịch này. Bỏ nhà đi, uống rượu say, hành hạ vợ con, rồi khi tỉnh rượu thì xin lỗi. Cứ thế, Hộ không sao thoát ra được mặc cảm một thằng hèn. “hèn biết bao là một thằng con trai không nuôi nổi vợ, con thì còn mong làm nên trò gì nữa?”
4. Cả ba bi kịch quấn vào nhau thành bi kịch “đời thừa”
Hộ không sao thoát ra được. Không thể vừa là nhà văn có trách nhiệm lại vừa dùng ngòi bút để nuôi nổi vợ con. Cũng không thể bỏ gia đình để theo đuổi mộng văn chương. Hộ đau đớn trong bi kịch “đời thừa”, sống thừa, người trí thức có hoài bảo, có trách nhiệm, có lương tâm, vậy mà không làm được gì cho đờimình có ý nghĩa.” Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?””
5. Nguyên nhân
Cuộc sống trong xã hội cũ không thể giúp nhà văn sống bằng ngòi bút. Thự ra ngay cả trong xã hội hôm nay, không phải nhà văn nào cũng có thể sống bằng nhuận bút những gì mình viết ra. Họ phải kiếm sống bằng nhiều nghề khác.
Cũng cần nhận rõ nguyên nhân này, chính cá tính nghệ sĩ của Hộ góp thêm một nhân tố cụ thể vào cái nghèo khổ, đẩy Hộ đến bi kịch. Hộ có tính bốc đồng. Gặp bạn là quên hết mọi sự. “ôi thôi! Mặc kệ gia đình và những cái gì còn lại!... Hắn sẽ uống rất khỏe, nói toàn những chuyện vá trời lấp biển, rồi đi la cà đến hết đêm mới về.”
GIÁ TRỊ HIỆN THỰC CỦA ĐỜI THỪA
Đời Thừa không phản ánh trực tiếp hiện thực thời đại của Hộ. Người đọc biết rất ít về khung cảnh xã hội cụ thể. Chỉ vài nét sơ lược. Đó là tình cảnh đói nghèo của Hộ. Nhà văn không thể sống bằng ngòi viết. Hộ viết văn, nhà đông con, vợ ở nhà trông con, lương tháng chỉ đủ sống cho 10 ngày:” Hộ vốn nghèo. Hắn là một nhà văn, trước kia, với cách viết thận trọng của hắn, hắn chỉ kiếm được vừa đủ để một mình hắn sống một cách eo hẹp, có thể nói là cực khổ.”,” cả tháng Từ ăn và bắt các con ăn kham khổ, thường thường đói nữa! Quà sáng thì bỏ hẳn, có khi bữa tối cũng chịu nhịn cơm, ăn cháo.”
Tác phẩm tập trung miêu tả cái bi kịch tinh thần của nhà văn, của người trí thức tiểu tư sản trong xã hội cũ khát khao làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?qua đó đặt ra vấn đề xã hội có ý nghĩa nhân sinh to lớn, đó là làm thế nào để người trí thức có hoài bão, có lý tưởng có thể sống có ích cho đời, thay vì phải sống trong bi kịch đời thừa.
NC miêu tả tình trạng vong thân của người trí thức qua đó gián tiếp lên ánh chế độ xã hội đã đẩy người trí thức đến tình cảnh bế tắc. Kết thúc tác phẩm là một tình cảnh thật đáng thương. Cả Hộ, Từ và đứa con cùng khóc, vì trước mặt Hộ, tháng tới lấy gì để sống, tiền nợ tháng trước chưa trả, tiền nhuận bút tháng này Hộ đã xài hết. Tình cảnh của Hộ là tình cảng “khốn nạn” thật đáng thương. Từ ru con bằng một bài hát nao lòng.
Ai làm cho gió lên giời,
Cho mưa xuống đất, cho người biệt li;
Ai làm cho Nam, Bắc phân kỳ,
Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân...
Đó là câu hỏi không có câu trả lời. Ai làm? Ai làm nên thảm cảnh này?
Giá trị hiện thực đặc sắc của tác phẩm thể hiện ở việc NC đặt vấn đề về trách nhiệm xã hội ngòi bút của nhà văn. “Sự cẩu thả trong văn chương thật đê tiện”. Nhà văn phải là người sáng tạo, phải viết những tác phẩm “làm cho người gần người hơn”, cũng nhắc nhở nhà văn về tính nghệ sĩ ham vui bốc đồng có thể gây ra những hậu quả mà vợ con họ phải chịu. Nhà văn phải có trách nhiệm với gia đình của mình.
GÍA TRỊ NHÂN ĐẠO CỦA ĐỜI THỪA
Nam Cao thông cảm sâu sắc với những nỗi thống khổ của người trí thức trong xã hội cũ. Thông cảm nỗi khó nghèo và bất lực trong cuộc mưu sinh. Trong Những Chuyện Không Muốn Viết, Nam Cao thổ lộ điều này :” cả đời tôi chỉ lo chết đói...nguyện vọng của tôi là có tiền cho vợ đong gạo, mua nước mắm và mua ba xu tiền thuốc cho con”. Nhà văn “điên lên vì kiếm tiền và điên lên cả tiếng con khóc”, đau đầu với những “chuyện tẹp nhẹp vô nghĩa lý” , “Tiền nhà... tiền giặt... tiền thuốc... tiền nước mắm... Còn chịu tất! Tháng vừa rồi tiêu tốn quá, mới mồng mười đã hết tiền”.NC quằn quại với những bi kịch tinh thần cũa người trí thức, mà đó cũng là bi kịch của chính ông. Thật nghiệp, chiến tranh loạn lạc, xã hội VN bị thực dân phong kiến Phát xít là cho bần cùng. Chính ông là Giáo Thứ trong Sống Mòn.
Lòng thương yêu con người của NC thể hiện tinh tế và sâu nặng trong suốt tác phẩm.
Đó là tình cảnh bi thương của mẹ con Từ. “Từ khóc như mưa, khóc tưởng chẳng bao giờ còn lặng được. Từ khóc, và ôm con ngồi nhịn đói, bởi vì Từ chẳng còn biết trông cậy vào ai, trừ bà mẹ già mù và quanh năm nay ốm, mai đau, mà Từ vẫn phải nuôi. Bà mẹ già biết làm sao? Bà chỉ còn một cách là còn được ít nước mắt nào thì rỏ cả ra mà khóc với con, và cả mẹ lẫn con chỉ có một cách là khóc cho đến khi nào bao nhiêu xương thịt đều chảy ra thành nước mắt hết, để rồi cùng chết cả”.Câu văn của Nam Cao như xuất phát từ chính trong nỗi đau của bản thân ông. Ông đã thể hiện nỗi đau của Từ như chính nỗi đau của mình.
Đó là nỗi đau đớn đến tê dại điên cuồng và chết lặng của Hộ. “Và nhiều khi, không còn chịu nổi cái không khí bực tức ở trong nhà, hắn đang ngồi bỗng đứng phắt lên, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm, vùng vằng đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn. Hắn đi lang thang, không chủ đích gì. Rồi khi gió mát ở bên ngoài đã làm cái trán nóng bừng nguội bớt đi và lòng trút nhẹ được ít nhiều uất giận, hắn tạt vào một tiệm giải khát nào mà uống một cốc bia hay cốc nước chanh.. Hắn thừ mặt ra như một kẻ phải đi đày, một buổi chiều âm thầm kia, ngồi trong một làn khói nặng u buồn mà nhớ quê hương. Hắn cũng nhớ nhung một cái gì rất xa xôi... những mộng đẹp ngày xưa... một con người rất đáng yêu đã chẳng là mình nữa. Hắn lắc đầu tự bảo: "Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi".
NC khóc cho tình cảnh bế tắc của người trí thức:” Hắn ôm chặt lấy cái bàn tay bé nhỏ của Từ vào ngực mình mà khóc. Từ thức dậy, Từ hiểu ngay, không cần hỏi một câu nào cũng hiểu. Và Từ cảm động. Mắt Từ giàn giụa nước. Từ khẽ rút tay ra, vòng lên cổ chồng, nhẹ nhàng núi hắn vào, để hắn gục đầu lên cạnh ngực Từ. Hắn lại càng khóc to hơn và cố nói qua tiếng khóc: - Anh... anh... chỉ là... một thằng... khốn nạn!... - Không!... Anh chỉ là một người khổ sở!... Chính vì em mà anh khổ...”
Bút pháp Hiện Thực Phê Phán không giúp NC chỉ ra con đường giải phóng cho nhân vật của mình, nhưng tình cảm nhân đạo ông dành cho nhân vật thật đáng quý. Đời Thừa thức tỉnh người đọc về một hiện thực cần phải thay đổi đi để cứu lấy những con người khổ như Hộ.
__________________________________
ĐỀ : Tư tưởng nhân đạo sâu sắc mới mẻ của Nam Cao trong Đời Thừa.
(ĐHSP Hanoi 2000)
ĐÁP ÁN CỦA BỘ GIÁO DỤC
1.Phát hiện và phân tích sâu sắc tấn bi kịch tinh thần đau đớn của Hộ, qua đó NC tố cáo cái xã hội đã đọa đày con người trong đói nghèo, vùi dập ước mơ,làm chết mòn đời sống tinh thần và lẽ sống cao đẹp của con người.
2.Không chấp nhận cái ác, kiên định nguyên tắc tình thương, thái độ đấu tranh quyết liệt để giữ gìn cái thiện và tình thương.
Nam Cao thuộc thế hệ nhà văn 1930-1945 đã thức tỉnh sâu sắc ý thức cá nhân về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân. Cá nhân khát khao được sống có ích, được cống hiến và phát huy mọi khả năng.
_____________________________________________________________
NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ TÂM LÝ TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO
Bùi Công Thuấn
Truyện ngắn Nam Cao trước cách mạng Tháng Tám là truyện ngắn tâm lý.. Ngay từ những dòng mở đầu cuả truyện, Nam Cao đã dẫn ta nhập ngay vào dòng chảy suy nghĩ, dòng chảy tâm trạng cuả nhân vật. Tính chất “ đang suy nghĩ”, “ đang đối thoại”, “đang độc thoại”. ”đang nói chuyện trong tâm tưởng” cuả nhân vật là một đặc trưng phong cách nghệ thuật cuả Nam Cao. Tác giả không kể lại những suy nghĩ cuả nhân vật. Suy nghĩ cuả nhân vật không phải là một dòng ý thức tuôn chảy. Không có sự phân tích những trạng thái tâm lý, cảm xúc. Nhưng nhân vật đang nói to lên (trong đầu), nói toạc ra (với chính mình), đang mở toang cánh cưả tâm hồn mình. Giọng điệu tâm lý là giọng đang nói to cho mọi người nghe.
Người đọc khó nhận ra đâu là giọng kể cuả tác giả, đâu là giọng nói trong đầu nhân vật. Có sự chuyển hoá rất tự nhiên giữa hai giọng này : “Ầy là lúc hắn lò dò về đến sân . Hắn đang đi bỗng giật mình. Một con chó đang thiu thiu trong một bụi dong ở đầu sân nhảy choàng ra. Một tí nưã thì nó đớp vào chân hắn. Hắn nhảy cẫng lên một cái và hắn sực nhớ ra rằng : Nhà hắn có một con chó vện, con chó vện ấy hay trông gà hoá cuốc, nên lắm khi chực đớp cả chân người nhà. Đó là một cái tật không thể tha thứ được. Bởi không ai nuôi chó để nó cắn què chân bao giờ. Ờ mà lại điều này nưã : nuôi mèo hay nuôi chó cũng phải tuỳ cảnh gia đình ; nhà giàu nuôi là phải ; bởi nhà giàu sợ trộm mà lại nhiều cơm hớt ; còn nghèo rớt mồng tơi như nhà hắn nuôi làm gì ? Giá thử nhà còn trẻ nhỏ, thì nuôi chó cũng được việc. Nhưng nhà không còn trẻ nhỏ. Thằng cu con đã lên ba. Nó đã có thể ra vườn được. Hạt gạo năm nay khó chuốc như hạt ngọc. Đến bưã ăn phải tính đầu để chia cơm. Cứ tình hình ấy, thì phải dở hơi lắm lắm mới nuôi một con chó để chẳng có việc gì cho nó làm…Thế là đủ lắm. Hắn sung sướng vì đã nghĩ ra điều ấy. Hắn gật đầu luôn mấy cái. Rồi hắn đưa mắt nhìn trộm con chó vện…”( Trẻ con không được ăn thịt chó )
Trong khi thể hiện tâm lý nhân vật, Nam cao đã gọt tỉa hết những chi tiềt miêu tả ngoại cảnh . Văn Nam Cao có rất ít những đoạn tả cảnh, những đoạn dẫn truyện. Câu truyện là dòng tâm lý vận động không ngừng. Cảnh vật bên ngoài ( nếu có) cũng thấm đấm tâm lý nhân vật. Thời gian hiện thực rất ít lộ ra. Đó là thời gian tâm lý, không xác định. Nam Cao hay diễn đạt thời gian bằng những từ phiếm chỉ : “Từ đấy”, “được ít lâu”, “từ ngày có ông Lang Rận”, “nhưng một đêm muà đông rét mướt kia”, “thế rồi một hôm”, ít lâu nay”, “buổi tối hôm ấy”…Có khi câu chuyện là lược sử cả một quãng đời dài cuả nhân vật (Dì Hảo, Ở Hiền ) . Thời gian cũng cũng lược giản còn vưà đủ để người đọc hiểu là nhân vật đã trải qua quãng thời gian ấy. Thời gian không phải là yếu tố chi phối tâm lý nhân vật và cốt truyện, mà tâm lý nhân vật tự vận động đẩy câu chuyện đi tới. Nhân vật suy đi, tính lại rồi hành động. Mạch truyện phát triển trên mạch tâm lý vận động. suy nghĩ diễn ra trong đầu nhân vật trước, từ đó thúc đẩy hành động.. Tất cả tự nhiên như sự việc phải xảy ra như vậy. Tính cách nhân vật hiện lên như khắc như tạc. Khó nhận ra bàn tay đạo diễn cuả tác giả. Tâm lý gợi tâm lý, ý tưởng gợi liên tưởng, suy diễn, đòi phải hành động, dẫn đến kết thúc bất ngờ, khi dồn nén tâm lý lên đỉnh điểm.
“Anh Đĩ Chuột rít hai hàm răng lại. hai chân giận dữ đạp phắt cái ghế đổ văng xuống đất. Cái tròng rút mạnh lại. Cái bộ xương bọc da giãy giụa như một con gà bị bẫy, sau cùng, nó chỉ còn giật từng cái chậm dưới sợi thừng lủng lẳng” ( Nghèo ). Đĩ Chuột treo cổ tự tử, chết một cách tội nghiệp. Mọi chi tiết trước đó trong truyện như những sức ép tâm lý ngày càng tăng lên, mãnh liệt như nước dâng, như lưả cháy, khiến cho Đĩ Chuột không thể nào hành động khác được. Anh ta dứt khoát cho đầu vào thòng lọng và giận dữ đạp phăng ghế.
Cái chết cuả Chí Phèo, cuả lão Hạc cũng diễn ra như vậy, bất ngờ, quyết liệt, dữ dội. Nhân vật không thể cưỡng lại những dồn nén tâm lý. Hành động cuả nhân vật phải diễn ra, như một tất yếu, để kết thúc tiến trình tâm lý đã phát khởi.Trong truyện Đón Khách, tuy tình huống là vui vẻ, nhưng mạch tâm lý được tích tụ ngầm ngầm, đầy ứ lên, và uất nghẹn ở kết thúc truyện. Trước mâm cơm tết “ cơm trắng, cá ngon, giò đầy mâm, bánh chưng rền lắm” cả nhà ngồi lặng im. Ông Đồ cứ nghẹn luôn mãi, đôi mắt ông ầng ậc nước mắt. Uất quá, ác quá mà không nói ra được. Truyện kết thúc, gây một ấn tượng rất mạnh trong lòng người đọc, để lại một dư vị thấm thiá, lâu dài, phải suy nghĩ.
Để thực hiện được sự vận động tâm lý, gắn liền mạch truyện, loại bỏ thời gian, Nam Cao ít dùng hồi tưởng, như thủ pháp quen thuộc. Ông thường dùng liên tưởng, từ sự việc này, ông để nhân vật gợi ra, gọi ra sự việc khác. Có một mạch lập luận, suy diễn ngầm trong tâm lý nhân vật, trong kết cấu truyện. Một ý tưởng khởi điểm xuất phát, qua nhiều chặng liên tưởng loại suy, qua những sự việc hô ứng liên châu, câu chuyện phải tiến triển theo hướng đã định. Chẳng hạn truyện Những Truyện Không Muốn Viết, tác giả đã lập luận rằng, kể chuyện mình tức là “ đổ đốn”. “Cái tôi” là đáng ghét, bỉ ổi, thời còn nói đến làm gì. Tác giả nói đến những cái khác. Cái khác đó là chuyện người đàn ông có vợ, chuyện con chó mực, chuyện thằng say, và cuối cùng không còn dám viết cái gì nưã. Bởi vì viết chuyện gì cũng đụng chạm, kể cả những chuyện “buông cau, cây chuối, cục đất, buổi hoàng hôn hay con lợn, nhưng biết đâu đấy ?... Tôi sợ có người lại nhận mình là buồng cau, cây chuối, cục đất, buổi hoàng hôn, hay con lợn để, để mà không bằng lòng. Bởi thế, tuy chẳng muốn, tôi đành lại lấy tôi ra mà viết để cho yên chuyện” Rõ ràng đó là một lập luận, một cấu trúc vòng tròn phát triển. Truyện Cười cũng có sự vận động tương tự. Mọi diễn biến xoay quanh cái trục lập luận là phải cười, “ cứ cười đi, cười nhiều đi “. Truyện Cái Mặt Không Chơi Được cũng xoay quanh chính cái nhan đề ấy mà phát triển qua nhiều tình huống, nhiều thời điểm trong cuộc đời…
Tuy nhiên, không phải tất cả mọi truyện ngắn cuả Nam Cao đều có cấu trúc rõ như vậy. Nhưng nếu để ý kỹ, người đọc dễ nhận thấy một mạch lập luận ngầm trong phong cách ngôn ngữ cuả Nam cao, dù là một đoạn văn, hay một cảnh, hoặc cấu trúc truyện. Đoạn sau đây trong Đón Khách là một thí dụ
“Có giời biết đấy ; quả thật Sinh không ác. Nhưng mà Sinh nhẹ dạ. Ấy là cái tật chung cuả những người trẻ tuổi. Vả lại, Sinh vẫn tưởng không đời nào lại có những người ngớ ngẩn như thế đươc. Vẫn biết ông Đồ tính thật thà. Nhưng còn bà cụ nưã chứ ! bà phải hiểu rằng Sinh đuà cợt, có ai ngờ bà Đồ cũng lẩn thẩn như ông Đồ nốt. Bởi thế, mới đầu năm mà hàng xóm đã được một mẻ tức cười. Nhưng nói thế thì ai hiểu. Truyện phải kể có đầu, có đuôi. Vậy đầu đuôi như thế này…”
Người đọc thường gặp trong suy nghĩ cuả nhân vật hoặc trong chuyển mạch truyện, Nam Cao hay dùng từ ngữ cuả văn nghị luận : “quả thật”, “nhưng mà”, “vả lại”, “bởi thế”, “vậy”, “nên”, “thế mà”, “ấy mà”…Điều đặc sắc là tuy mạch truyện và ngôn ngữ được viềt bằng phong cách chính luận, nhưng văn Nam Cao vẫn tự nhiên. Người đọc tưởng như phải viết như vậy, nhân vật phải cảm nghỉ như vậy, câu chuyện phải tiến triển như vậy không khác đi được. Điều này gợi ra hai cách lý giải, tuy sử dụng ngôn ngữ lập luận nhưng đó chỉ là yếu tố nhỏ trong nhiều biện pháp xây dựng hình tượng nhân vật, đồng thời nó phản ánh tính chất suy tư trong con người Nam Cao.
(Trích trong bài viết : Phong cách nghệ thuật của Nam Cao của BCT)
___________________________________________________
NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ TÂM LÝ TRONG ĐỜI THỪA
(Đáp án đề thi ĐH khối C năm 2005)
1.Nam Cao đã diễn tả, phân tích rất sâu sắc những giằng xé trong tâm hồn Hộ.
Trước hết là những day dứt của Hộ về nghề nghiệp.Anh có khát vọng cao đẹp, muốn nâng cao giá trị đời sống của mình bằng lao động sáng tạo nghệ thuật, cống hiến cho đời những tác phẩm giá trị. Nhưng thực tại đen tối, hoàn cảnh gia đình túng quẫn, buộc anh phải viết thứ văn chương “vô vị, nhạt nhẽo”. Anh đau khổ vì thấy mình đã trở thành một kẻ “vô ích, một người thừa”.
Nam cao còn miêu tả rất tinh tế những dằn vặt của Hộ về nhân cách.Hộ vốn là người nhân hậu, vị tha.Trong bất cứ hoàn cảnh nào Hộ cũng không từ bỏ tình thương để làm một kẻ tàn nhẫn.Nhưng do bức xúc về công việc viết lách, anh trút hết buồn bực lên đầu vợ con, gây đau khổ cho ngu7o72ima2 mình yêu thương, rồi lại hối hận về chính điều đó.
2. NC đã khéo léo tạo tình huống đầy kịch tính để đẩy xung đột nội tâm của nhân vật lên đỉnh điểm.
Xung đột nội tâm của Hộ thể hiện ở mâu thuẫn không thể dung hòa giữa sống với hoài bão nghệ thuật và sống với nguyên tắc tình thương. Chính vì không thể chọn một trong hai con đường nên NC rơi vào bế tắc
Tâm trạng căng thẳng bế tắc của Hộ được diễn tả theo một cái vòng quẩn quanh : khát vọng –thất vọng - nhẫn tâm - hối hận – khát vọng - thất vọng ngày càng nặng nề hơn
3. NC rất linh hoạt trong việc ngôn ngữ để miêu tả nội tâm.
Có chỗ nhà văn dùng lời người kể chuyện để miêu tả tâm lý nhân vật :”Hắn băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời.”Có khi là lời nhân vật tự biểu hiện nội tâm của mình :”Ta đành phí một vài năm để kiếm tiền”. Có lúc vừa là lời người kể chuyện, vừa là lời nội tâm nhân vật :”Khốn nạn! Khốn nạn thay cho hắn... Chao ôi! Hắn đã viết những gì? Tất cả góp phần diễn tả sinh động tâm lý nhân vật Hộ
4. BCT Bổ sung
Mạch truyện được kể bằng việc chuyển từ tâm lý nhân vật này sang tâm lý nhân vật kia, kết hợp với kỹ thuật để cho nhân vật hồi tưởng.Thí dụ : Từ đang hồi tưởng nhớ lại những ân nghĩa của Hộ, Nam Cao chuyển :
” Bởi thế, nên luôn mấy năm trời, Hộ thấy Từ là một người vợ rất ngoan, rất phục tùng, rất tận tâm. Và đáng lẽ thì Hộ phải sung sướng lắm.
Nhưng Hộ chỉ sung sướng được ít lâu thôi. Sau cái hành vi đẹp của hắn, và cái hành vi ấy được trả công bằng một tình yêu rất êm đềm, hắn chỉ còn nghĩ đến gia đình, chỉ cốt làm sao nuôi được gia đình. Hộ vốn nghèo. Hắn là một nhà văn.”
Kết cấu truyện được viết theo mạch sau đây : Hộ đang đọc báo (ở hiện tại) rồi hồi tưởng về quá khứ (để giới thiệu nhân vật, căn nguyên sự việc) sau đó trở về hiện tại. Từ nhắc Hộ tiền nợ tháng này. Truyện phát triển về tương lai : Hộ đi xuống phố và kết truyện là một cảnh nhà Hộ sáng hôm sau. Nhờ kết câu tâm lý-hồi tưởng, NC tái hiện được số phận của nhân vật trong một truyện ngắn. Vì thế truyện ngắn NC thường có dung lượng phản ánh thực tại rộng trong thời gian không gian. Mạch thời gian và không gian bị tước bỏ, chỉ còn lại rất ít.
Có sự kết hợp một cách tài năng giữa cách viết hồi tưởng với việc phân tích tâm lý, miêu tả sự việc và ngôn ngữ đối thoại, đặt trong những tình huống đặc biệt. Chẳng hạn, cảnh nhà Hộ sáng hôm sau. Khi tỉnh dậy, Hộ quan sát. Nhà cửa vẫn tươm tất. Hộ nhớ lại sự việc hồi hôm, rồi đến chỗ Từ nằm trên võng, kết bằng cảnh ba người cùng khóc, kết bằng một bài ca dao.
“Sáng hôm sau. Hắn thức dậy trên cái giường nhà hắn. Hắn thấy mình mẩy đau như dần, đầu nặng, miệng khô và đắng. Cổ thì ráo và rát cháy. Hắn đưa tay với ấm nước ở trên bàn để uống. ấm nước đầy và nước hãy còn ấm. Ðó là sự ý tứ của Từ. Hộ hiểu thế, và lòng buồn nao nao. Bởi hắn lờ mờ nhớ ra rằng: hình như đêm qua hắn say rượu, đi la cà chán rồi về, lại gây sự với Từ; hình như hắn lại đánh cả Từ, đuổi Từ đi, rồi mới đóng cửa lại và đi ngủ... Hắn đột nhiên hoảng sợ, nhổm dậy, mắt nhớn nhác tìm Từ...
Bây giờ Từ đang thiếp đi trên võng, đứa con nhỏ nằm bên. Từ vốn dậy sớm quen. Sáng nay, chắc Từ mệt quá, vừa mới lịm đi, nên mới ngủ trưa như thế. Ðầu Từ ngoẹo về một bên. Một tay Từ trật ra ngoài mép võng, sã xuống, cái bàn tay hơi xòe ra lỏng lẻo. Dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não. Hắn bùi ngùi. Chao ôi! Trông Từ nằm thật đáng thương..”
________________________________________
ĐỀ : Viết về Nam Cao , nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Hoàng Khung nhận xét : “ Một điểm đặc sắc cuả ngòi bút Nam cao là từ những sự việc rất tầm thường quen thuộc trong đời sống hằng ngày đã đặt ra những vấn đề xã hội có ý nghiã to lớn ‘
Bằng những hiểu biết về tác phẩm cuả Nam Cao , anh chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên .
( Đề thi học sinh giỏi Văn Đồng Nai 24.11.2004)
Nhập đề : giới thiệu Nam Cao , sự nghiệp văn chương , để dẫn đến đề : đặc điểm sáng tạo cuả NC
Thân bài :
1. Giải thích ý kiến Nguyễn Hoành khung :
a. Thuật ngữ “ngòi bút “ dùng để chỉ những sáng tác ( tác phẩm ) , cách thức tạo ra tác phẩm ( phương pháp sáng tác ) và những đặc điểm về phong cách. Nói đặc điểm ngòi bút Nam Cao là nói đến đặc điểm cuả cách xây dựng tác phẩm , đặc điểm cuả phương pháp sáng tácvà phong cách cuả Nam Cao
b. Đặc điểm ấy cuả NC là gì :
NC chọn chất liệu là những sự việc tầm thường cuả đời sống hàng ngày.
Nội dung , tư tưởng cuả NC là những vấn đề xã hội có ý nghiã to lớn.
Từ đó , ta hiểu phương pháp sáng tác cuả NC là chủ nghiã hiện thực
Đặc điểm này chi phôí nhiều yếu tố khác cuả quá trình sáng tạo như chọn lưạ nhân vật, kiểu ngôn ngữ , kiểu cấu trúc tác phẩm
2. Chứng minh :
a. Truyện Lão Hạc :
Chất liệu là sực việc Lão Hạc bán con chó : Việc bán chó diễn ra thế nào ? lai lịch con chó , tại sao phải bán chó , bán chó rồi Lão Hạc sống ra sao , từ đó dẫn đến cái chết cuả Lão Hạc.
Vấn đề xã hội có ý nghiã lớn lao là : làm thế nào để giữ được nhân cách. Lão Hạc đã phải chọn cái chết để giữ cho nhân cách không bị tha hoá .Nếu lão sống , lão phải ăn vào phần cuả con , hoặc sống nhờ ông giáo , hoặc theo Binh Tư đi ăn trộm. Lão nhất định không chấp nhận những giải pháp ấy .Lão giữ nhân cách bằng sự chọn lưạ cái chết dữ dội.
b. Truyện Đời Thưà :
Chất liệu là cảnh sống nheo nhóc cuả vợ con nhà văn. Tháng này tiêu xài nhiều chỉ mới mùng 10 đã hết lương.Vợ con nhịn sáng , nhịn quà , có khi nhịn cả bưã tối . cảnh sống này hiện diện trong Giăng Sáng , Những Chuyện Không Muốn Viết, Quên Điều độ, Cười, Nước Mắt ..và chất liệu : tính bốc đồng nghệ sĩ.
Vấn đề xã hội có ý nghiã lớn lao : Bi kịch người trí thức Tiểu Tư sản, muốn sống có ích lại trở thành người thưà , thành kẻ ác , kẻ bất lương đê tiện. Phải thay đổi xã hội cũ để cứu lấy nhà văn
3.Đánh giá nhận xét cuả Nguyễn Hoàng Khung :
a.Nguyễn Hoành Khung đã chỉ ra một đặc điểm quan trọng làm nên giá trị ngòi bút Nam Cao : từ chất liệu sự việc tầm thường trong đời sống hàng ngày , NC lại có khả năng sáng tạo nên tác phẩm đề cập đến những vấn đề xã hội có ý nghiã to lớn .( Ngô Tất Tố , Nguyễn Công Hoan , Vũ Trọng Phụng lại chon những sự việc to lớn : như nạn sưu thuế , đời sống tư sản thánh thị.)
b. Nhưng điều gì giúp NC sáng tạo được từ chất liệu tầm thường ? Đó là tấm lòng nhân đạo và chủ nghiã hiện thực mà ông đã chọn lưạ khi chỉ viết về “ những tiếng đau khổ từ những kiếp lầm than ‘, cùng với nỗ lực “ đào sâu suy nghĩ, tìm tòi , khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có “, tức là nỗ lực sáng tạo theo một con đường riêng.
Kết luận :
Sáng tác cuả NC là sự kết hợp cuả chủ nghiã hiện thực và chủ nghiã nhân đạo sâu sắc, nhưng NC có cách sáng tạo riêng , từ sự việc tầm thường trong đời sống hàng ngày mà tạo nên tác phẩm ,đặt ra những vấn đề xã hội có ý nghiã lớn lao .Có thể nói chính những quan niệm nghệ thuật tiến bộ đã làm nên giá trị ngòi bút Nam Cao
___________________________________
1.Hoàn cảnh sáng tác: Đăng lần đầu trên báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy. 1943
2.Tóm tắt truyện
Từ muốn nói chuyện với chồng, nhưng thấy Hộ đọc sách chăm chú quá Từ lại thôi.Từ hồi tưởng lại việc Hộ đã cứu vớt mình khi Từ bị phụ tình, và lo đám ma cho mẹ Từ, bao nhiêu là ân nghiã. Từ trở thành người vợ rất ngoan rất phục tùng và rất tận tâm, đáng lẽ thì Hộ phải sung sướng lắm.
Nhưng Hộ chỉ sung sướng được mấy năm. Lúc ấy, hắn chỉ nghĩ đến gia đình, chỉ cốt làm sao nuôi được gia đình. Hộ vốn nghèo. Hắn là một nhà văn. Hộ viết thận trọng nên chỉ kiếm được vưà đủ sống eo hẹp. Nhưng lúc ấy hắn có một mình, lại là một gã trẻ tuổi say mê lý tưởng, hắn coi khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất.Với hắn “ nghệ thuật là tất cả”. Thế rồi, từ khi gắn đời hắn vào đời Từ, hắn có cả một gia đình để chăm lo. Hắn phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng. Hắn nhận ra hắn là một kẻ bất lương, một người thưà. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì cho văn chương. Hắn buồn và đau đớn lắm. Có lúc hắn nghĩ “ phải biết ác , biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ “, nhưng hắn không thể bỏ lòng thương. Hắn là người chứ không phải một thứ quái vật. Hộ Điên người vì lo xoay tiền. Hắn khổ quá, bực bội quá, bỏ nhà đi , uống rượu rồi về hành vợ con. Có lúc hắn muốn quật một nhát cho chết hết cả vợ con. Có lúc hắn thừ người ra “ thôi thế là hết! Ta đã hỏng! ta đã hỏng đứt rồi”. Hắn ra về lòng rũ buồn.
Lần đầu, Từ sửng sốt, nhưng rồi Hộ xin lỗi và hôn các con. Hắn tuyên bố chưà rượu, được khá lâu, nhưng rồi lại uống, lại say, lại làm những trò vưà buồn cười, vưà đáng sợ. Nhiều lần, Từ muốn ẵm con bỏ nhà đi, Từ muốn bỏ liều con để đi làm, nhưng Từ mềm yếu. Từ rất yêu chồng và nhận ra Hộ cũng rấy yêu vợ, yêu con. Từ không dám xa hắn. Từ cố gắng sống ngoan ngoãn hơn, đáng yêu hơn. Từ nhịn ăn nhịn mặc, để bớt tiêu tiền. Từ thu nhà ngăn nắp, ngăn tiếng khóc trẻ con và sợ cả nói với chồng
Nhân lúc Hộ ngưng đọc và nói với vợ về một đoạn văn hay, Từ mới nhắc chồng hôm nay mồng hai, mồng ba Tây. Hộ bảo phải đi xuống phố lấy nhuận bút. Hộ hưá lấy tiền xong không đi đâu cả và mua cái gì cho cả nhà ăn. Ở toà báo ra, Hộ đi thẳng tới một hiệu thịt quay, hắn định mua mấy haò thịt và bánh Tây cho con. Bất chợt gặpTrung. Trung nói về quyển Đường Về sắp được dịch sang tiếng Anh và nhuận bút tới ba nghìn đồng.. Thế là Hộ quên hẳn vợ con, cùng với Trung đi uống bia, rồi tiếp tục đi uống rượu để bàn chuyện văn chương, nói những chuyện vá trời lấp biển..
Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, Hộ thấy nhà cưả vẫn gọn gàng ngăn nắp. Hộ nhớ lại sự việc tối qua. Từ nằm ngủ trên võng. Hộ thấy Từ khổ cả trong cái tướng ngủ. Hộ đến bên Từ, hắn bật khóc nhận mình là “ thằng khốn nạn “. Từ thức giấc,ôm đầu Hộ áp vào ngực mình bảo “ không, anh chỉ là một người khổ”. Đưá con cũng khóc. Từ ru con bằng một bài ca dao buồn.
Chủ đề: kể lại tình cảnh nhân vật Hồ, Nam Cao miêu tả những bi kịch tinh thần cuả người trí thức tiểu tư sản trong xã hội cũ. Người trí thức, có tài năng, có lý tưởng, hoài bão, muốn sống có ích, nhưng phải sống đời thưà: “ Còn gì đau đớn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt “.
____________________________________
Phân tích bi kịch tinh thần của Hộ trong Đời Thừa
Khái niệm bi kịch :
Kịch phương Tây có các thể loại : Bi kịch , hài kịch, chính kịch, kịch lịch sử. Hài kịch khai thác cái hài ( cái cười ). Bi kịch (Danh từ) khai thác cái bi ( cái buồn ) như bi kịch Hamlet, Roméo và Juliette cuả Shakespear, kết thúc khi các nhân vật chính chết trong khát vọng. Bi kịch ( nghĩa Tính từ) diễn tả trạng thái tâm hồn cuả con người khi có một khát vọng mãnh liệt bị hoàn cảnh ngãng trở, đè bẹp không thực hiện được. Chẳng hạn, Chí Phèo có khát vọng mãnh liệt muốn trở về làm người lương thiện, nhưng không được, Chí chết trong khát vọng ấy. Tình trạng cuả Chí là tình trạng bi kịch
Để trình bày bi kịch, ta cần xem xét khát vọng cuả nhân vật là gì ? thực thế đã ngãng trở khát vọng ấy ra sao, và tâm hồn nhân vật lâm vào trạng thái gì ?
BI KỊCH TINH THẦN CỦA NGƯỜI TRÍ THỨC
1.Bi kịch “vỡ mộng văn chương”(hay bi kịch về lý tưởng)
Moäng vaên chöông : sự nghiệp văn chương là Lý tưởng cuả Hộ . Hộ dồn hết sức lực tâm huyết cho lý tưởng ấy . “Ðói rét không có nghĩa lý gì đối với gã trẻ tuổi say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp. Ðầu hắn mang một hoài bão lớn”.” Ðối với hắn lúc ấy, nghệ thuật là tất cả; ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa. Hắn băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời...”. Hộ tự nhận thức về sự chọn lựa lý tưởng của mình: “tôi mê văn quá nên mới khổ. Ấy thế, mà tuy khổ thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi”.
Hộ tan vỡ mộng văn chương, bởi vì Hộ không viết được, càng không viết được cái gì cho ra trò.”Hắn phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng. Hắn phải viết những bài báo để người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc”, ” Hắn đã viết những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương” Hắn nhận ra thực tế này : "Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi". Và hắn nghĩ đến cái tên hắn đang mờ dần đằng sau những tên khác mới trồi ra, rực rỡ hơn...”
Hộ lâm vào trạng thái bi kịch của sự sụp đổ lý tưởng, bi kịch đánh mất mình, trạng thái vong thân.” Hắn thấy mình khổ quá, bực bội quá. Hắn trở nên cau có và gắt gỏng. Hắn gắt gỏng với con, với vợ, với bất cứ ai, với chính mình. Và nhiều khi, không còn chịu nổi cái không khí bực tức ở trong nhà, hắn đang ngồi bỗng đứng phắt lên, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm, vùng vằng đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn. Hắn đi lang thang, không chủ đích gì”.” Hắn thừ mặt ra như một kẻ phải đi đày, một buổi chiều âm thầm kia, ngồi trong một làn khói nặng u buồn mà nhớ quê hương. Hắn cũng nhớ nhung một cái gì rất xa xôi... những mộng đẹp ngày xưa... một con người rất đáng yêu đã chẳng là mình nữa.”
Đối với người trí thức, sự sụp đổ lý tưởng cũng chính là sự sụp đổ của sự tồn tại. Anh ta sống mà không còn tồn tại nữa. Cái bi kịch là ở chỗ phải ý thức về sự vong thân ấy.
2.Bi kịch “người thừa” hay bi kịch về lương tâm
Hộ có ý thức sâu sắc về trách nhiệm của ngòi bút. Có yêu cầu đúng đắn về sự sáng tạo. “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có”. HỘ có khát vọng viết những tác phẩm lớn.” Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái (5), sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn.”Hộ ý thức rõ đạo đức nghề nghiệp:” Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê” tiện.
Nhưng thực tế đã bắt Hộ chà đạp lên đạo đức, lương tâm của chính mình.” Hộ điên người lên vì phải xoay tiền. Hắn còn điên lên vì con khóc, nhà không lúc nào được yên tĩnh để cho hắn viết hay đọc sách.”. ” Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương”.
Hộ lâm vào bi kịch người thừa. “Thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích, một người thừa.”.”Hắn nghĩ thế và buồn lắm, buồn lắm! Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình? Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?”Hàng ngày đối diện với trang giấy trắng, hắn lại tự nguyền rủa mình là kẻ khốn nạn.” Rồi mỗi lần đọc lại một cuốn sách hay một đoạn văn ký tên mình, hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng vò nát sách và mắng mình như một thằng khốn nạn... Khốn nạn! Khốn nạn! Khốn nạn thay cho hắn! Bởi vì chính hắn là một thằng khốn nạn! Hắn chính là một kẻ bất lương!”
3.Bi kịch lẽ sống (hay bi kịch gia đình)
Hộ sống bằng triết lý tình thương. HỘ cưu mang Từ và quyết liệt giữ lấy lý tưởng sống yêu thương. “hắn không thể bỏ lòng thương; có lẽ hắn nhu nhược, hèn nhát, tầm thường, nhưng hắn vẫn còn được là người: hắn là người chứ không phải là một thứ quái vật bị sai khiến bởi lòng tự ái. Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỷ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình”
Thế nhưng cuộc sống dần dần làm tha hóa Hộ, biến Hộ thành kẻ ác. Hộ gây ra bao điều đau khổ cho Từ và cho chính mình. Đến nỗi nhiều lần Từ định bỏ đi. Đã có lúc Hộ làm Từ khiếp sợ vì cái ác đe dọa.” - Ngày mai... mình có biết không?... Chỉ ngày mai thôi! Là tôi đuổi tất cả mấy mẹ con mình ra khỏi cái nhà này... Tôi đuổi tất, không chừa một đứa nào, kể cả con bé Thảo là con ngoan nhất... Mấy đứa kia đều đáng vật một nhát cho chết cả! Chúng nó chỉ biết ăn với hét! Cả con mẹ nữa, con mẹ là mình ấy... cũng đáng vật một nhát cho chết cả!”
Hộ triền miên sống trong bi kịch này. Bỏ nhà đi, uống rượu say, hành hạ vợ con, rồi khi tỉnh rượu thì xin lỗi. Cứ thế, Hộ không sao thoát ra được mặc cảm một thằng hèn. “hèn biết bao là một thằng con trai không nuôi nổi vợ, con thì còn mong làm nên trò gì nữa?”
4. Cả ba bi kịch quấn vào nhau thành bi kịch “đời thừa”
Hộ không sao thoát ra được. Không thể vừa là nhà văn có trách nhiệm lại vừa dùng ngòi bút để nuôi nổi vợ con. Cũng không thể bỏ gia đình để theo đuổi mộng văn chương. Hộ đau đớn trong bi kịch “đời thừa”, sống thừa, người trí thức có hoài bảo, có trách nhiệm, có lương tâm, vậy mà không làm được gì cho đờimình có ý nghĩa.” Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?””
5. Nguyên nhân
Cuộc sống trong xã hội cũ không thể giúp nhà văn sống bằng ngòi bút. Thự ra ngay cả trong xã hội hôm nay, không phải nhà văn nào cũng có thể sống bằng nhuận bút những gì mình viết ra. Họ phải kiếm sống bằng nhiều nghề khác.
Cũng cần nhận rõ nguyên nhân này, chính cá tính nghệ sĩ của Hộ góp thêm một nhân tố cụ thể vào cái nghèo khổ, đẩy Hộ đến bi kịch. Hộ có tính bốc đồng. Gặp bạn là quên hết mọi sự. “ôi thôi! Mặc kệ gia đình và những cái gì còn lại!... Hắn sẽ uống rất khỏe, nói toàn những chuyện vá trời lấp biển, rồi đi la cà đến hết đêm mới về.”
GIÁ TRỊ HIỆN THỰC CỦA ĐỜI THỪA
Đời Thừa không phản ánh trực tiếp hiện thực thời đại của Hộ. Người đọc biết rất ít về khung cảnh xã hội cụ thể. Chỉ vài nét sơ lược. Đó là tình cảnh đói nghèo của Hộ. Nhà văn không thể sống bằng ngòi viết. Hộ viết văn, nhà đông con, vợ ở nhà trông con, lương tháng chỉ đủ sống cho 10 ngày:” Hộ vốn nghèo. Hắn là một nhà văn, trước kia, với cách viết thận trọng của hắn, hắn chỉ kiếm được vừa đủ để một mình hắn sống một cách eo hẹp, có thể nói là cực khổ.”,” cả tháng Từ ăn và bắt các con ăn kham khổ, thường thường đói nữa! Quà sáng thì bỏ hẳn, có khi bữa tối cũng chịu nhịn cơm, ăn cháo.”
Tác phẩm tập trung miêu tả cái bi kịch tinh thần của nhà văn, của người trí thức tiểu tư sản trong xã hội cũ khát khao làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?qua đó đặt ra vấn đề xã hội có ý nghĩa nhân sinh to lớn, đó là làm thế nào để người trí thức có hoài bão, có lý tưởng có thể sống có ích cho đời, thay vì phải sống trong bi kịch đời thừa.
NC miêu tả tình trạng vong thân của người trí thức qua đó gián tiếp lên ánh chế độ xã hội đã đẩy người trí thức đến tình cảnh bế tắc. Kết thúc tác phẩm là một tình cảnh thật đáng thương. Cả Hộ, Từ và đứa con cùng khóc, vì trước mặt Hộ, tháng tới lấy gì để sống, tiền nợ tháng trước chưa trả, tiền nhuận bút tháng này Hộ đã xài hết. Tình cảnh của Hộ là tình cảng “khốn nạn” thật đáng thương. Từ ru con bằng một bài hát nao lòng.
Ai làm cho gió lên giời,
Cho mưa xuống đất, cho người biệt li;
Ai làm cho Nam, Bắc phân kỳ,
Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân...
Đó là câu hỏi không có câu trả lời. Ai làm? Ai làm nên thảm cảnh này?
Giá trị hiện thực đặc sắc của tác phẩm thể hiện ở việc NC đặt vấn đề về trách nhiệm xã hội ngòi bút của nhà văn. “Sự cẩu thả trong văn chương thật đê tiện”. Nhà văn phải là người sáng tạo, phải viết những tác phẩm “làm cho người gần người hơn”, cũng nhắc nhở nhà văn về tính nghệ sĩ ham vui bốc đồng có thể gây ra những hậu quả mà vợ con họ phải chịu. Nhà văn phải có trách nhiệm với gia đình của mình.
GÍA TRỊ NHÂN ĐẠO CỦA ĐỜI THỪA
Nam Cao thông cảm sâu sắc với những nỗi thống khổ của người trí thức trong xã hội cũ. Thông cảm nỗi khó nghèo và bất lực trong cuộc mưu sinh. Trong Những Chuyện Không Muốn Viết, Nam Cao thổ lộ điều này :” cả đời tôi chỉ lo chết đói...nguyện vọng của tôi là có tiền cho vợ đong gạo, mua nước mắm và mua ba xu tiền thuốc cho con”. Nhà văn “điên lên vì kiếm tiền và điên lên cả tiếng con khóc”, đau đầu với những “chuyện tẹp nhẹp vô nghĩa lý” , “Tiền nhà... tiền giặt... tiền thuốc... tiền nước mắm... Còn chịu tất! Tháng vừa rồi tiêu tốn quá, mới mồng mười đã hết tiền”.NC quằn quại với những bi kịch tinh thần cũa người trí thức, mà đó cũng là bi kịch của chính ông. Thật nghiệp, chiến tranh loạn lạc, xã hội VN bị thực dân phong kiến Phát xít là cho bần cùng. Chính ông là Giáo Thứ trong Sống Mòn.
Lòng thương yêu con người của NC thể hiện tinh tế và sâu nặng trong suốt tác phẩm.
Đó là tình cảnh bi thương của mẹ con Từ. “Từ khóc như mưa, khóc tưởng chẳng bao giờ còn lặng được. Từ khóc, và ôm con ngồi nhịn đói, bởi vì Từ chẳng còn biết trông cậy vào ai, trừ bà mẹ già mù và quanh năm nay ốm, mai đau, mà Từ vẫn phải nuôi. Bà mẹ già biết làm sao? Bà chỉ còn một cách là còn được ít nước mắt nào thì rỏ cả ra mà khóc với con, và cả mẹ lẫn con chỉ có một cách là khóc cho đến khi nào bao nhiêu xương thịt đều chảy ra thành nước mắt hết, để rồi cùng chết cả”.Câu văn của Nam Cao như xuất phát từ chính trong nỗi đau của bản thân ông. Ông đã thể hiện nỗi đau của Từ như chính nỗi đau của mình.
Đó là nỗi đau đớn đến tê dại điên cuồng và chết lặng của Hộ. “Và nhiều khi, không còn chịu nổi cái không khí bực tức ở trong nhà, hắn đang ngồi bỗng đứng phắt lên, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm, vùng vằng đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn. Hắn đi lang thang, không chủ đích gì. Rồi khi gió mát ở bên ngoài đã làm cái trán nóng bừng nguội bớt đi và lòng trút nhẹ được ít nhiều uất giận, hắn tạt vào một tiệm giải khát nào mà uống một cốc bia hay cốc nước chanh.. Hắn thừ mặt ra như một kẻ phải đi đày, một buổi chiều âm thầm kia, ngồi trong một làn khói nặng u buồn mà nhớ quê hương. Hắn cũng nhớ nhung một cái gì rất xa xôi... những mộng đẹp ngày xưa... một con người rất đáng yêu đã chẳng là mình nữa. Hắn lắc đầu tự bảo: "Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi".
NC khóc cho tình cảnh bế tắc của người trí thức:” Hắn ôm chặt lấy cái bàn tay bé nhỏ của Từ vào ngực mình mà khóc. Từ thức dậy, Từ hiểu ngay, không cần hỏi một câu nào cũng hiểu. Và Từ cảm động. Mắt Từ giàn giụa nước. Từ khẽ rút tay ra, vòng lên cổ chồng, nhẹ nhàng núi hắn vào, để hắn gục đầu lên cạnh ngực Từ. Hắn lại càng khóc to hơn và cố nói qua tiếng khóc: - Anh... anh... chỉ là... một thằng... khốn nạn!... - Không!... Anh chỉ là một người khổ sở!... Chính vì em mà anh khổ...”
Bút pháp Hiện Thực Phê Phán không giúp NC chỉ ra con đường giải phóng cho nhân vật của mình, nhưng tình cảm nhân đạo ông dành cho nhân vật thật đáng quý. Đời Thừa thức tỉnh người đọc về một hiện thực cần phải thay đổi đi để cứu lấy những con người khổ như Hộ.
__________________________________
ĐỀ : Tư tưởng nhân đạo sâu sắc mới mẻ của Nam Cao trong Đời Thừa.
(ĐHSP Hanoi 2000)
ĐÁP ÁN CỦA BỘ GIÁO DỤC
1.Phát hiện và phân tích sâu sắc tấn bi kịch tinh thần đau đớn của Hộ, qua đó NC tố cáo cái xã hội đã đọa đày con người trong đói nghèo, vùi dập ước mơ,làm chết mòn đời sống tinh thần và lẽ sống cao đẹp của con người.
2.Không chấp nhận cái ác, kiên định nguyên tắc tình thương, thái độ đấu tranh quyết liệt để giữ gìn cái thiện và tình thương.
Nam Cao thuộc thế hệ nhà văn 1930-1945 đã thức tỉnh sâu sắc ý thức cá nhân về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân. Cá nhân khát khao được sống có ích, được cống hiến và phát huy mọi khả năng.
_____________________________________________________________
NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ TÂM LÝ TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO
Bùi Công Thuấn
Truyện ngắn Nam Cao trước cách mạng Tháng Tám là truyện ngắn tâm lý.. Ngay từ những dòng mở đầu cuả truyện, Nam Cao đã dẫn ta nhập ngay vào dòng chảy suy nghĩ, dòng chảy tâm trạng cuả nhân vật. Tính chất “ đang suy nghĩ”, “ đang đối thoại”, “đang độc thoại”. ”đang nói chuyện trong tâm tưởng” cuả nhân vật là một đặc trưng phong cách nghệ thuật cuả Nam Cao. Tác giả không kể lại những suy nghĩ cuả nhân vật. Suy nghĩ cuả nhân vật không phải là một dòng ý thức tuôn chảy. Không có sự phân tích những trạng thái tâm lý, cảm xúc. Nhưng nhân vật đang nói to lên (trong đầu), nói toạc ra (với chính mình), đang mở toang cánh cưả tâm hồn mình. Giọng điệu tâm lý là giọng đang nói to cho mọi người nghe.
Người đọc khó nhận ra đâu là giọng kể cuả tác giả, đâu là giọng nói trong đầu nhân vật. Có sự chuyển hoá rất tự nhiên giữa hai giọng này : “Ầy là lúc hắn lò dò về đến sân . Hắn đang đi bỗng giật mình. Một con chó đang thiu thiu trong một bụi dong ở đầu sân nhảy choàng ra. Một tí nưã thì nó đớp vào chân hắn. Hắn nhảy cẫng lên một cái và hắn sực nhớ ra rằng : Nhà hắn có một con chó vện, con chó vện ấy hay trông gà hoá cuốc, nên lắm khi chực đớp cả chân người nhà. Đó là một cái tật không thể tha thứ được. Bởi không ai nuôi chó để nó cắn què chân bao giờ. Ờ mà lại điều này nưã : nuôi mèo hay nuôi chó cũng phải tuỳ cảnh gia đình ; nhà giàu nuôi là phải ; bởi nhà giàu sợ trộm mà lại nhiều cơm hớt ; còn nghèo rớt mồng tơi như nhà hắn nuôi làm gì ? Giá thử nhà còn trẻ nhỏ, thì nuôi chó cũng được việc. Nhưng nhà không còn trẻ nhỏ. Thằng cu con đã lên ba. Nó đã có thể ra vườn được. Hạt gạo năm nay khó chuốc như hạt ngọc. Đến bưã ăn phải tính đầu để chia cơm. Cứ tình hình ấy, thì phải dở hơi lắm lắm mới nuôi một con chó để chẳng có việc gì cho nó làm…Thế là đủ lắm. Hắn sung sướng vì đã nghĩ ra điều ấy. Hắn gật đầu luôn mấy cái. Rồi hắn đưa mắt nhìn trộm con chó vện…”( Trẻ con không được ăn thịt chó )
Trong khi thể hiện tâm lý nhân vật, Nam cao đã gọt tỉa hết những chi tiềt miêu tả ngoại cảnh . Văn Nam Cao có rất ít những đoạn tả cảnh, những đoạn dẫn truyện. Câu truyện là dòng tâm lý vận động không ngừng. Cảnh vật bên ngoài ( nếu có) cũng thấm đấm tâm lý nhân vật. Thời gian hiện thực rất ít lộ ra. Đó là thời gian tâm lý, không xác định. Nam Cao hay diễn đạt thời gian bằng những từ phiếm chỉ : “Từ đấy”, “được ít lâu”, “từ ngày có ông Lang Rận”, “nhưng một đêm muà đông rét mướt kia”, “thế rồi một hôm”, ít lâu nay”, “buổi tối hôm ấy”…Có khi câu chuyện là lược sử cả một quãng đời dài cuả nhân vật (Dì Hảo, Ở Hiền ) . Thời gian cũng cũng lược giản còn vưà đủ để người đọc hiểu là nhân vật đã trải qua quãng thời gian ấy. Thời gian không phải là yếu tố chi phối tâm lý nhân vật và cốt truyện, mà tâm lý nhân vật tự vận động đẩy câu chuyện đi tới. Nhân vật suy đi, tính lại rồi hành động. Mạch truyện phát triển trên mạch tâm lý vận động. suy nghĩ diễn ra trong đầu nhân vật trước, từ đó thúc đẩy hành động.. Tất cả tự nhiên như sự việc phải xảy ra như vậy. Tính cách nhân vật hiện lên như khắc như tạc. Khó nhận ra bàn tay đạo diễn cuả tác giả. Tâm lý gợi tâm lý, ý tưởng gợi liên tưởng, suy diễn, đòi phải hành động, dẫn đến kết thúc bất ngờ, khi dồn nén tâm lý lên đỉnh điểm.
“Anh Đĩ Chuột rít hai hàm răng lại. hai chân giận dữ đạp phắt cái ghế đổ văng xuống đất. Cái tròng rút mạnh lại. Cái bộ xương bọc da giãy giụa như một con gà bị bẫy, sau cùng, nó chỉ còn giật từng cái chậm dưới sợi thừng lủng lẳng” ( Nghèo ). Đĩ Chuột treo cổ tự tử, chết một cách tội nghiệp. Mọi chi tiết trước đó trong truyện như những sức ép tâm lý ngày càng tăng lên, mãnh liệt như nước dâng, như lưả cháy, khiến cho Đĩ Chuột không thể nào hành động khác được. Anh ta dứt khoát cho đầu vào thòng lọng và giận dữ đạp phăng ghế.
Cái chết cuả Chí Phèo, cuả lão Hạc cũng diễn ra như vậy, bất ngờ, quyết liệt, dữ dội. Nhân vật không thể cưỡng lại những dồn nén tâm lý. Hành động cuả nhân vật phải diễn ra, như một tất yếu, để kết thúc tiến trình tâm lý đã phát khởi.Trong truyện Đón Khách, tuy tình huống là vui vẻ, nhưng mạch tâm lý được tích tụ ngầm ngầm, đầy ứ lên, và uất nghẹn ở kết thúc truyện. Trước mâm cơm tết “ cơm trắng, cá ngon, giò đầy mâm, bánh chưng rền lắm” cả nhà ngồi lặng im. Ông Đồ cứ nghẹn luôn mãi, đôi mắt ông ầng ậc nước mắt. Uất quá, ác quá mà không nói ra được. Truyện kết thúc, gây một ấn tượng rất mạnh trong lòng người đọc, để lại một dư vị thấm thiá, lâu dài, phải suy nghĩ.
Để thực hiện được sự vận động tâm lý, gắn liền mạch truyện, loại bỏ thời gian, Nam Cao ít dùng hồi tưởng, như thủ pháp quen thuộc. Ông thường dùng liên tưởng, từ sự việc này, ông để nhân vật gợi ra, gọi ra sự việc khác. Có một mạch lập luận, suy diễn ngầm trong tâm lý nhân vật, trong kết cấu truyện. Một ý tưởng khởi điểm xuất phát, qua nhiều chặng liên tưởng loại suy, qua những sự việc hô ứng liên châu, câu chuyện phải tiến triển theo hướng đã định. Chẳng hạn truyện Những Truyện Không Muốn Viết, tác giả đã lập luận rằng, kể chuyện mình tức là “ đổ đốn”. “Cái tôi” là đáng ghét, bỉ ổi, thời còn nói đến làm gì. Tác giả nói đến những cái khác. Cái khác đó là chuyện người đàn ông có vợ, chuyện con chó mực, chuyện thằng say, và cuối cùng không còn dám viết cái gì nưã. Bởi vì viết chuyện gì cũng đụng chạm, kể cả những chuyện “buông cau, cây chuối, cục đất, buổi hoàng hôn hay con lợn, nhưng biết đâu đấy ?... Tôi sợ có người lại nhận mình là buồng cau, cây chuối, cục đất, buổi hoàng hôn, hay con lợn để, để mà không bằng lòng. Bởi thế, tuy chẳng muốn, tôi đành lại lấy tôi ra mà viết để cho yên chuyện” Rõ ràng đó là một lập luận, một cấu trúc vòng tròn phát triển. Truyện Cười cũng có sự vận động tương tự. Mọi diễn biến xoay quanh cái trục lập luận là phải cười, “ cứ cười đi, cười nhiều đi “. Truyện Cái Mặt Không Chơi Được cũng xoay quanh chính cái nhan đề ấy mà phát triển qua nhiều tình huống, nhiều thời điểm trong cuộc đời…
Tuy nhiên, không phải tất cả mọi truyện ngắn cuả Nam Cao đều có cấu trúc rõ như vậy. Nhưng nếu để ý kỹ, người đọc dễ nhận thấy một mạch lập luận ngầm trong phong cách ngôn ngữ cuả Nam cao, dù là một đoạn văn, hay một cảnh, hoặc cấu trúc truyện. Đoạn sau đây trong Đón Khách là một thí dụ
“Có giời biết đấy ; quả thật Sinh không ác. Nhưng mà Sinh nhẹ dạ. Ấy là cái tật chung cuả những người trẻ tuổi. Vả lại, Sinh vẫn tưởng không đời nào lại có những người ngớ ngẩn như thế đươc. Vẫn biết ông Đồ tính thật thà. Nhưng còn bà cụ nưã chứ ! bà phải hiểu rằng Sinh đuà cợt, có ai ngờ bà Đồ cũng lẩn thẩn như ông Đồ nốt. Bởi thế, mới đầu năm mà hàng xóm đã được một mẻ tức cười. Nhưng nói thế thì ai hiểu. Truyện phải kể có đầu, có đuôi. Vậy đầu đuôi như thế này…”
Người đọc thường gặp trong suy nghĩ cuả nhân vật hoặc trong chuyển mạch truyện, Nam Cao hay dùng từ ngữ cuả văn nghị luận : “quả thật”, “nhưng mà”, “vả lại”, “bởi thế”, “vậy”, “nên”, “thế mà”, “ấy mà”…Điều đặc sắc là tuy mạch truyện và ngôn ngữ được viềt bằng phong cách chính luận, nhưng văn Nam Cao vẫn tự nhiên. Người đọc tưởng như phải viết như vậy, nhân vật phải cảm nghỉ như vậy, câu chuyện phải tiến triển như vậy không khác đi được. Điều này gợi ra hai cách lý giải, tuy sử dụng ngôn ngữ lập luận nhưng đó chỉ là yếu tố nhỏ trong nhiều biện pháp xây dựng hình tượng nhân vật, đồng thời nó phản ánh tính chất suy tư trong con người Nam Cao.
(Trích trong bài viết : Phong cách nghệ thuật của Nam Cao của BCT)
___________________________________________________
NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ TÂM LÝ TRONG ĐỜI THỪA
(Đáp án đề thi ĐH khối C năm 2005)
1.Nam Cao đã diễn tả, phân tích rất sâu sắc những giằng xé trong tâm hồn Hộ.
Trước hết là những day dứt của Hộ về nghề nghiệp.Anh có khát vọng cao đẹp, muốn nâng cao giá trị đời sống của mình bằng lao động sáng tạo nghệ thuật, cống hiến cho đời những tác phẩm giá trị. Nhưng thực tại đen tối, hoàn cảnh gia đình túng quẫn, buộc anh phải viết thứ văn chương “vô vị, nhạt nhẽo”. Anh đau khổ vì thấy mình đã trở thành một kẻ “vô ích, một người thừa”.
Nam cao còn miêu tả rất tinh tế những dằn vặt của Hộ về nhân cách.Hộ vốn là người nhân hậu, vị tha.Trong bất cứ hoàn cảnh nào Hộ cũng không từ bỏ tình thương để làm một kẻ tàn nhẫn.Nhưng do bức xúc về công việc viết lách, anh trút hết buồn bực lên đầu vợ con, gây đau khổ cho ngu7o72ima2 mình yêu thương, rồi lại hối hận về chính điều đó.
2. NC đã khéo léo tạo tình huống đầy kịch tính để đẩy xung đột nội tâm của nhân vật lên đỉnh điểm.
Xung đột nội tâm của Hộ thể hiện ở mâu thuẫn không thể dung hòa giữa sống với hoài bão nghệ thuật và sống với nguyên tắc tình thương. Chính vì không thể chọn một trong hai con đường nên NC rơi vào bế tắc
Tâm trạng căng thẳng bế tắc của Hộ được diễn tả theo một cái vòng quẩn quanh : khát vọng –thất vọng - nhẫn tâm - hối hận – khát vọng - thất vọng ngày càng nặng nề hơn
3. NC rất linh hoạt trong việc ngôn ngữ để miêu tả nội tâm.
Có chỗ nhà văn dùng lời người kể chuyện để miêu tả tâm lý nhân vật :”Hắn băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời.”Có khi là lời nhân vật tự biểu hiện nội tâm của mình :”Ta đành phí một vài năm để kiếm tiền”. Có lúc vừa là lời người kể chuyện, vừa là lời nội tâm nhân vật :”Khốn nạn! Khốn nạn thay cho hắn... Chao ôi! Hắn đã viết những gì? Tất cả góp phần diễn tả sinh động tâm lý nhân vật Hộ
4. BCT Bổ sung
Mạch truyện được kể bằng việc chuyển từ tâm lý nhân vật này sang tâm lý nhân vật kia, kết hợp với kỹ thuật để cho nhân vật hồi tưởng.Thí dụ : Từ đang hồi tưởng nhớ lại những ân nghĩa của Hộ, Nam Cao chuyển :
” Bởi thế, nên luôn mấy năm trời, Hộ thấy Từ là một người vợ rất ngoan, rất phục tùng, rất tận tâm. Và đáng lẽ thì Hộ phải sung sướng lắm.
Nhưng Hộ chỉ sung sướng được ít lâu thôi. Sau cái hành vi đẹp của hắn, và cái hành vi ấy được trả công bằng một tình yêu rất êm đềm, hắn chỉ còn nghĩ đến gia đình, chỉ cốt làm sao nuôi được gia đình. Hộ vốn nghèo. Hắn là một nhà văn.”
Kết cấu truyện được viết theo mạch sau đây : Hộ đang đọc báo (ở hiện tại) rồi hồi tưởng về quá khứ (để giới thiệu nhân vật, căn nguyên sự việc) sau đó trở về hiện tại. Từ nhắc Hộ tiền nợ tháng này. Truyện phát triển về tương lai : Hộ đi xuống phố và kết truyện là một cảnh nhà Hộ sáng hôm sau. Nhờ kết câu tâm lý-hồi tưởng, NC tái hiện được số phận của nhân vật trong một truyện ngắn. Vì thế truyện ngắn NC thường có dung lượng phản ánh thực tại rộng trong thời gian không gian. Mạch thời gian và không gian bị tước bỏ, chỉ còn lại rất ít.
Có sự kết hợp một cách tài năng giữa cách viết hồi tưởng với việc phân tích tâm lý, miêu tả sự việc và ngôn ngữ đối thoại, đặt trong những tình huống đặc biệt. Chẳng hạn, cảnh nhà Hộ sáng hôm sau. Khi tỉnh dậy, Hộ quan sát. Nhà cửa vẫn tươm tất. Hộ nhớ lại sự việc hồi hôm, rồi đến chỗ Từ nằm trên võng, kết bằng cảnh ba người cùng khóc, kết bằng một bài ca dao.
“Sáng hôm sau. Hắn thức dậy trên cái giường nhà hắn. Hắn thấy mình mẩy đau như dần, đầu nặng, miệng khô và đắng. Cổ thì ráo và rát cháy. Hắn đưa tay với ấm nước ở trên bàn để uống. ấm nước đầy và nước hãy còn ấm. Ðó là sự ý tứ của Từ. Hộ hiểu thế, và lòng buồn nao nao. Bởi hắn lờ mờ nhớ ra rằng: hình như đêm qua hắn say rượu, đi la cà chán rồi về, lại gây sự với Từ; hình như hắn lại đánh cả Từ, đuổi Từ đi, rồi mới đóng cửa lại và đi ngủ... Hắn đột nhiên hoảng sợ, nhổm dậy, mắt nhớn nhác tìm Từ...
Bây giờ Từ đang thiếp đi trên võng, đứa con nhỏ nằm bên. Từ vốn dậy sớm quen. Sáng nay, chắc Từ mệt quá, vừa mới lịm đi, nên mới ngủ trưa như thế. Ðầu Từ ngoẹo về một bên. Một tay Từ trật ra ngoài mép võng, sã xuống, cái bàn tay hơi xòe ra lỏng lẻo. Dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não. Hắn bùi ngùi. Chao ôi! Trông Từ nằm thật đáng thương..”
________________________________________
ĐỀ : Viết về Nam Cao , nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Hoàng Khung nhận xét : “ Một điểm đặc sắc cuả ngòi bút Nam cao là từ những sự việc rất tầm thường quen thuộc trong đời sống hằng ngày đã đặt ra những vấn đề xã hội có ý nghiã to lớn ‘
Bằng những hiểu biết về tác phẩm cuả Nam Cao , anh chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên .
( Đề thi học sinh giỏi Văn Đồng Nai 24.11.2004)
Nhập đề : giới thiệu Nam Cao , sự nghiệp văn chương , để dẫn đến đề : đặc điểm sáng tạo cuả NC
Thân bài :
1. Giải thích ý kiến Nguyễn Hoành khung :
a. Thuật ngữ “ngòi bút “ dùng để chỉ những sáng tác ( tác phẩm ) , cách thức tạo ra tác phẩm ( phương pháp sáng tác ) và những đặc điểm về phong cách. Nói đặc điểm ngòi bút Nam Cao là nói đến đặc điểm cuả cách xây dựng tác phẩm , đặc điểm cuả phương pháp sáng tácvà phong cách cuả Nam Cao
b. Đặc điểm ấy cuả NC là gì :
NC chọn chất liệu là những sự việc tầm thường cuả đời sống hàng ngày.
Nội dung , tư tưởng cuả NC là những vấn đề xã hội có ý nghiã to lớn.
Từ đó , ta hiểu phương pháp sáng tác cuả NC là chủ nghiã hiện thực
Đặc điểm này chi phôí nhiều yếu tố khác cuả quá trình sáng tạo như chọn lưạ nhân vật, kiểu ngôn ngữ , kiểu cấu trúc tác phẩm
2. Chứng minh :
a. Truyện Lão Hạc :
Chất liệu là sực việc Lão Hạc bán con chó : Việc bán chó diễn ra thế nào ? lai lịch con chó , tại sao phải bán chó , bán chó rồi Lão Hạc sống ra sao , từ đó dẫn đến cái chết cuả Lão Hạc.
Vấn đề xã hội có ý nghiã lớn lao là : làm thế nào để giữ được nhân cách. Lão Hạc đã phải chọn cái chết để giữ cho nhân cách không bị tha hoá .Nếu lão sống , lão phải ăn vào phần cuả con , hoặc sống nhờ ông giáo , hoặc theo Binh Tư đi ăn trộm. Lão nhất định không chấp nhận những giải pháp ấy .Lão giữ nhân cách bằng sự chọn lưạ cái chết dữ dội.
b. Truyện Đời Thưà :
Chất liệu là cảnh sống nheo nhóc cuả vợ con nhà văn. Tháng này tiêu xài nhiều chỉ mới mùng 10 đã hết lương.Vợ con nhịn sáng , nhịn quà , có khi nhịn cả bưã tối . cảnh sống này hiện diện trong Giăng Sáng , Những Chuyện Không Muốn Viết, Quên Điều độ, Cười, Nước Mắt ..và chất liệu : tính bốc đồng nghệ sĩ.
Vấn đề xã hội có ý nghiã lớn lao : Bi kịch người trí thức Tiểu Tư sản, muốn sống có ích lại trở thành người thưà , thành kẻ ác , kẻ bất lương đê tiện. Phải thay đổi xã hội cũ để cứu lấy nhà văn
3.Đánh giá nhận xét cuả Nguyễn Hoàng Khung :
a.Nguyễn Hoành Khung đã chỉ ra một đặc điểm quan trọng làm nên giá trị ngòi bút Nam Cao : từ chất liệu sự việc tầm thường trong đời sống hàng ngày , NC lại có khả năng sáng tạo nên tác phẩm đề cập đến những vấn đề xã hội có ý nghiã to lớn .( Ngô Tất Tố , Nguyễn Công Hoan , Vũ Trọng Phụng lại chon những sự việc to lớn : như nạn sưu thuế , đời sống tư sản thánh thị.)
b. Nhưng điều gì giúp NC sáng tạo được từ chất liệu tầm thường ? Đó là tấm lòng nhân đạo và chủ nghiã hiện thực mà ông đã chọn lưạ khi chỉ viết về “ những tiếng đau khổ từ những kiếp lầm than ‘, cùng với nỗ lực “ đào sâu suy nghĩ, tìm tòi , khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có “, tức là nỗ lực sáng tạo theo một con đường riêng.
Kết luận :
Sáng tác cuả NC là sự kết hợp cuả chủ nghiã hiện thực và chủ nghiã nhân đạo sâu sắc, nhưng NC có cách sáng tạo riêng , từ sự việc tầm thường trong đời sống hàng ngày mà tạo nên tác phẩm ,đặt ra những vấn đề xã hội có ý nghiã lớn lao .Có thể nói chính những quan niệm nghệ thuật tiến bộ đã làm nên giá trị ngòi bút Nam Cao
___________________________________
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)